chữa nhiều bệnh như: vết đen sạm trên mặt, viêm amiđan cấp tính. Bên cạnh đó, con tằm chín và ngài tằm cũng là những vị thuốc quý.
Trong khi, vị thuốc quý này còn được dùng để chữa liệt dương, bổ huyết, khí hư trắng...
Những con tằm tự nhiên bị bệnh mà chết thường được sấy khô dùng làm thuốc, gọi là bạch cương tàm, còn gọi là cương tàm, cương trùng, thiên trùng
Bạch cương tàm dùng làm thuốc được ghi trước tiên
trong sách Bản kinh. Ở nước ta có nhiều nơi nuôi tằm. Người ta lấy những con tằm tự nhiên bị bệnh chết cho vào vôi sấy khô là được. Bạch cương tàm có chức năng chữa nhiều bệnh như: vết đen sạm trên mặt, viêm amiđan cấp tính. Trong khi, con tằm chín và ngài tằm cũng là những vị thuốc quý.
Bạch cương tàm dài chừng 3,5cm, đường kính 5mm, hình quanh co
, vẻ ngoài
màu trắng bẩn (hoặc màu nâu, hơi lốm đốm trắng); chất cứng nhưng giòn; khi bẻ đôi, vết bẻ có màu xanh nâu, mùi nặng, vị hơi đắng. Dân gian dùng bạch cương tàm để chữa nhiều bệnh của trẻ em như: kinh giản, co giật, khóc đêm. Nó cũng có thể chữa cảm, mất tiếng, xuất huyết não, cổ họng sưng đau, liệt dương, băng huyết, khí hư trắng hay đỏ, đẻ chấm dứt đau bụng. Trong Đông y, tằm là một vị thuốc bổ.
Đông y cho rằng bạch cương tàm vị mặn cay tính bình. Quy kinh Can phế. Thành phần chủ đạo gồm Ammonium oxalate, chitinase, beauverician, asparagine, fibrinolysin. Phân tích chung thì trong bạch cương tàm có chừng: 67,44% chất protid; 4,38% chất béo; 6,34% tro và 11,34% độ ẩm.
Con tằm
Dưới đây là cách trị bệnh từ thuốc bạch cương tàm:
Vết đen sạm trên mặt: bạch cương tàm tán nhỏ, hòa với nước, bôi vào vết sạm; những vết này sẽ mất dần.
Thiên đầu thống: bạch cương tàm 4 - 8g tán nhỏ, hòa với nước chè uống, thỉnh thoảng uống cùng với nước hành.
Viêm amiđan cấp tính: bạch cương tàm 10g, phèn chua 5g, phèn đen 5g. Tất cả trộn đều, tán thật mịn, cho vào lọ để dành. Khi dùng, lấy lá bạc hà 5g, sinh khương 5g, sắc với ít nước (đã hòa tan 2g bột nói trên). Lấy nước này chùi vào cổ họng cho nôn ra thật nhiều đờm.
Chữa các chứng suy nhược thần kinh, mệt mỏi, khó ngủ, ăn chậm tiêu, di mộng tinh, trẻ em chậm lớn, thanh nữ ít sữa: theo Đông y, tằm chín vị mặn, bùi béo, tính ấm, có chức năng bổ thận, dạ dày, ruột, thần kinh. Dùng tằm chín (đã nhả được ít sợi tơ, thân vàng óng, không có vết đen trên mình) 200g, lá dâu (lá bánh tẻ, không bị sâu hoặc úa) 500g, vừng đen 300g, mật ong toàn vẹn để làm viên. Cho tằm vào nước sôi, khuấy mạnh đến khi tằm chuyển sang màu trắng ngà. Vớt ra, để ráo nước rồi sấy hoặc rang nhẹ lửa (chừng 500C), đảo luôn cho tằm khô đều và không bị cháy. Khi thấy da tằm săn lại, cho lửa to hơn (độ 800C), đến lúc tằm có màu vàng nâu bóng, mùi thơm là được. Chờ tằm nguội, ngâm tằm 1 - 2 giờ với nước gừng, tỉ lệ một phần gừng, hai phần nước (gừng làm mất mùi tanh của tằm). Vớt tằm ra, sao vàng cho đến khi tằm thật khô, bẻ gãy được. Tán nhỏ và rây thành bột mịn.
Lá dâu rửa tinh khiết
, phơi khô trong bóng râm hoặc dưới ánh nắng nhẹ, vò bỏ cuống và xương lá. Vừng đen sảy tinh khiết
hạt lép và rác, phơi khô, sao thơm. Tán lá dâu với vừng đen, rây mịn. Trộn lẫn bột tằm, bột vừng, lá dâu; thêm dần mật ong, giã nhuyễn, trộn đều đến lúc khối bột không dính tay là được. Viên thành viên độ 1g. Viên thuốc có màu đen, hơi mềm, mùi thơm, vị ngọt mặn. Đựng thuốc trong lọ tinh khiết
kín, để ở nơi khô ráo, dùng dần. Ngày dùng hai lần, người lớn mỗi lần 10 - 20g, trẻ em 5 - 10g. Uống sau mỗi bữa ăn, dùng liền trong một tháng.
Chữa đái buốt do chứng lậu: mỗi lần uống 8g bột ngài tằm với rượu vào lúc đói.
Chữa chứng phong chúm miệng, cứng lưỡi, khóc không ra tiếng ở trẻ em: lấy bột ngài tằm hòa với mật ong, bôi vào trong mồm.
Chữa liệt dương, mộng tinh, vô sinh: ngài tằm 7 con (sao giòn), tôm he (bóc vỏ) 20g. Tất cả giã nát, trộn với trứng gà (2 quả), dùng dưới dạng thức ăn như rán hoặc hấp chín.
Chữa lãnh cảm, rối loạn kinh nguyệt hoặc tắt kinh sớm: ngài tằm (bỏ đầu, chân và cánh, sấy khô, sao vàng) 100g, ngâm với 500ml rượu trắng trong 7 - 10 ngày (càng lâu càng tốt), thỉnh thoảng lắc đều. Ngày uống hai lần, mỗi lần 30ml.
Chú ý: chỉ dùng
con tằm được nuôi bằng lá dâu.
Trị chứng phong nhiệt đau đầu co giật dùng “Gia vị Tang cúc ẩm”: cương tàm 6g, tang diệp 10g, cúc hoa, câu đằng, hoàng cầm đều 10g, sắc uống. Chu sa 1g hòa nước thuốc uống.
Hay “Bạch cương tàm tán”: cương tàm 6g, toàn phúc hoa 8g, mộc tặc thảo 6g, tế tân 3g, tang diệp, kinh giới đều 12g, cam thảo 4g sắc uống, hoặc tán bột mịn; mỗi lần 6 - 10g, ngày uống 2 - 3 lần.
Trị viêm hầu họng sưng đau, mất tiếng: bạch cương tàm 6g, khương hoạt 10g, xạ hương 0,01 - 0,03g tán bột trộn với nước gừng uống.
Trị đau nửa đầu (thiên đầu thống): cương tàm tán nhỏ hòa với nước chè uống. Có khi uống với cùng với nước lạnh.
Trị động kinh: dùng nhộng tằm khử mỡ chế thành phiến. Mỗi lần uống 0,9 - 1,5g, ngày 3 lần, trẻ nhỏ giảm liều. Trị 100 ca động kinh (nguyên phát 46 ca, co giật triệu chứng 54 ca). Theo dõi 2 tháng đến 2 năm, kết quả 26 ca không tái phát, lên cơn ít và nhẹ 51 ca, tỉ lệ có kết quả 77% (báo cáo của Trần Kiến Gia, Báo Giang Tô Trung Y dược 1976).
Liều dùng và để ý: liều thường dùng: 3 - 10g. Thuốc tán mỗi lần uống 1 - 1,5g. Tán phong nhiệt thường dùng sống, còn thường thuốc được sao chế để dùng.
Bạch cương tàm, toàn yết, ngô công đều là thuốc trị phong thường dùng nhưng cương tàm tức phong kém hơn. Cho nên trên lâm sàng gặp mặt trường hợp phong do can phong, nhẹ dùng phối hợp với toàn yết, trường hợp nặng nên thêm cả ngô công và toàn yết phối hợp. Cương tàm vừa trừ được nội phong vừa tán được ngoại phong và hóa đàm tán kết nên dùng cho chứng phong đàm là thích hợp. Qua thực tiển lâm sàng có thể dùng cương nhộng thay cho bạch cương tàm.
BS. HOÀNG XUÂN ĐẠI
0 nhận xét:
Đăng nhận xét