Sa sinh dục thường gọi là sa dạ con hay sa tử cung. Nhưng thực tế không chỉ dạ con mà thường cả bàng quang và trực tràng sa vào trong âm đạo. Trường hợp nặng, các tạng trên có thể sa ra ngoài âm đạo. Do đó, người ta gọi là sa sinh dục. Đây là bệnh không nguy hại đến tính mạng nhưng ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt, công huân của thanh nữ. Chị em thường cam chịu, giấu bệnh vì căn bệnh khó nói này nên phải đương đầu với nhiều khổ cực trong cuộc sống, khác biệt là rắc rối trong quan hệ vợ chồng.
Tử cung là một tạng nằm sâu trong ổ bụng. Nó được giữ tại chỗ bằng lớp cơ và các tổ chức vùng đáy chậu (dàn của phần dưới khung xương chậu), bởi các thành âm đạo và các dây chằng trong bụng và chậu hông. Nếu vì một lý do nào đó, các bộ phận neo giữ tử cung bị giãn, nhão ra thì áp lực trong ổ bụng (khi thở, khi rặn, khi ho) và sức nặng của tử cung sẽ đẩy, kéo nó tụt dần xuống thấp gây nên sa sinh dục với các mức độ không giống nhau.
Nguyên nhân sa sinh dục?
Nguyên nhân gây bệnh có thể do: đẻ sớm, đẻ dày, đỡ đẻ không đúng kỹ thuật, sau đẻ công huân sớm hoặc công huân nặng, người ốm yếu suy dinh dưỡng sau đẻ hoặc thiếu ăn, suy dinh dưỡng, cơ thể ốm yếu, tất cả các nguyên nhân trên đều dẫn đến tình trạng các dây chằng của tử cung (dây chằng tử cung cùng, dây chằng tròn, dây chằng rộng và các mô câu kết), các cơ vùng đáy chậu bị giãn mỏng, suy yếu hoặc bị rách, không đủ sức giữ tử cung ở địa điểm cũ. Do đó, khi có một động tác nào khiến cho áp lực trong ổ bụng bị tăng lên như ho liên tiếp, đi tiêu phải rặn nặng khi đi tiêu khó… sẽ đẩy tử cung sa xuống dưới và ra ngoài âm đạo.
Thăm khám giúp phát hiện bệnh sa sinh dục. Ảnh: TM
Biểu hiện của sa sinh dục?
Trên lâm sàng, sa sinh dục (địa điểm sa của cổ tử cung so với âm hộ) chia làm 3 độ sa sinh dục: độ 1 (độ nhẹ), độ 2 (vừa) và độ 3 (nặng). Tùy theo từng người, tùy mức độ sa nhiều hay sa ít, mới sa hay sa từ lâu, sa đơn thuần hay còn có thương tổn phối hợp, có kèm theo sa bàng quang hay trực tràng mà hiện ra những dấu hiệu thường gặp sau đây: khó tính, cảm giác tức nặng vùng cửa mình, ở bụng dưới, nhất là khi đứng, nhưng khi nằm thì hết cảm giác trên. Đôi khi có cảm giác muốn rặn đẻ vì các tĩnh mạch ở vùng đáy chậu bị sa sung huyết, đồng thời do áp lực trong thành bụng dồn xuống vùng đáy chậu đã bị suy yếu. Hay bị đau vùng sau thắt lưng. Tùy theo mức độ sa nhiều hay ít, thời gian sa mới hay đã lâu, sa đơn thuần hay có tổn thương phối hợp. Khối sa lồi ở vùng âm hộ, tầng sinh môn; Ban đầu kích thước khối sa nhỏ, sa không thường xuyên, hiện ra khi công huân nặng hoặc đi lại nhiều, nằm nghỉ thì khối sa tụt vào trong âm đạo hoặc tự đẩy lên được, càng về sau khối sa càng to, sa thường xuyên, không tự đẩy lên được nữa. Tức nặng bụng dưới, cảm giác vướng víu khó tính vùng âm hộ - tầng sinh môn, ảnh hưởng đến công huân và sinh hoạt hằng ngày của người bệnh. Nếu kèm theo sa bàng quang thì có dấu hiệu đi đái khó, đái dắt, són đái khi cười to, khi ho mạnh hay khi bị rùng mình, thường đái không hết nước tiểu nên bàng quang dễ bị viêm gây ra đái buốt. Trường hợp sa bàng quang nhiều thì ban sơ đi tiểu rất khổ cực, phải sử dụng ngón tay đẩy bàng quang lên trên và vào trong mới đi tiểu được. Đôi khi người bệnh đến viện vì bí đái cấp. Nếu kèm theo sa trực tràng thì đi tiêu có cảm giác vẫn còn chưa hết phân ở trực tràng, có thể bị đi tiêu khó. Nhiều người sa sinh dục nhưng kinh nguyệt vẫn tầm thường và vẫn có khả năng có thai. Những thanh nữ này dễ bị sẩy thai và đẻ non. Chảy máu, khí hư ra nhiều do cổ tử cung viêm nhiễm, cọ xát làm người bệnh đi lại khổ cực, hạn chế công huân…
Điều trị thế nào?
Tuỳ độ sa mà sau khi thăm khám bác sĩ sẽ có chỉ định can thiệp ngoại khoa (thường khi sa mức độ 3). Trước đây, để điều trị bệnh sa sinh dục, các bác sĩ thường sử dụng nguyên lý cắt tử cung, khâu treo bàng quang, làm lại thành trước và sau âm đạo hoặc phẫu thuật bịt âm đạo. Như vậy, đồng nghĩa với việc thải trừ người bệnh khỏi “cuộc chơi yêu đương”, xong “chuyện yêu” của người thanh nữ khiến người thanh nữ luôn mặc cảm, tấn công mất đi hạnh phúc làm vợ, làm mẹ của họ và gặp nhiều biến chứng. Hiện tại, bằng nguyên lý chữa bệnh mới sẽ giúp người bệnh giữ được dạ con và vẫn sinh đẻ tầm thường với điều kiện người bệnh phải điều trị sớm.
BS. Phạm Minh Nguyệt
0 nhận xét:
Đăng nhận xét