Cây chuối hột được dùng để chữa bệnh sỏi thận, đái tháođường... Gần đây người ta lại ưa dùng chuối hột rừng hơn chuối hột nhà.
Vì mọc ở rừng nên chuối rừng bình an hơn và chắc là phảimạnh hơn chuối trồng ở vườn nhà? Chuối rừng có lẽ còn lạ với bà con đô thị
nhưng không lạ gì với dân sống ở vùng núi Tây Bắc, Tây Nguyên và miền Trung.
Chuối hột rừng, tên khoa học là Musa acuminata Colla thuộchọ chuối (Musaceae).
Cây có thân giả cao tới 3 - 4m; lá có phiến dài, mặt dưới cóthể tía; cuống xanh có sọc đỏ. Hoa chuốihột rừng mọc thẳng đứng ở ngọn (khác với các loài chuối trồng có hoa mọc thõngxuống), màu đỏ thẫm, xen lẫn với những quả chuối màu vàng rộm, số nải ít hơn10, mo quấn lên. Hoa chuối hột rừng mọcthẳng đứng ở ngọn (khác với các loài chuối trồng có hoa mọc thõng xuống), cóloại màu đỏ thẫm (còn gọi là chuối rừng hoa đỏ - Musa paracoccinea A.Z. Liu.& D.Z. Li), xen lẫn với những quả chuối màu vàng rộm. Quả có cạnh, thịt quảnạc chứa nhiều hạt to 4 - 5mm.
Trái chuối hột rừng
Trái chuối rừng to bằng ngón tay cái, có hạt, lúc chín vàngươm ăn ngọt lịm. Nhưng do trái có nhiều hột nên thường người ta không ăn mà chỉlấy hột làm thuốc. Chuối hột rừng có hai loại, trái lớn và trái nhỏ. Tất cảngâm rượu đều thơm, ngon nhưng loại trái nhỏ có phần nhỉnh hơn vì nhựa nhiều.Chuối càng nhiều nhựa ngâm rượu càng ngon và ngọt.
Trái chuối hột còn non, thái mỏng, trộn với các loại rausống, ăn với nộm sứa, gỏi cá để giảm vị tanh và đề phòng tiêu chảy.
Trái chuối hột rừng có chức năng chữa đái tháo đường, viêmthận, tăng huyết áp.
Trị trẻ em đại tiện khó
: lấy 1 - 2 trái chuối chín đem vùi vàobếp lửa, khi vỏ quả ngả màu đen, ruột chín nhũn thì lấy ra để nguội, cho trẻăn, khoảng mươi phút sau là đi đại tiện được.
Trị sỏi bàng quang: trái chuối hột xanh thái mỏng, sấy khô,sao vàng, hạ thổ trong vài ngày, mỗi lần dùng 50-100g sắc với 400ml nước, uốnglàm 2 lần trong ngày vào lúc no. Có thể dùng dạng nước hãm như pha trà mà uống.
Trị bệnh thống phong (bệnh gút): quả chuối hột (rừng) 3g, củráy (rừng) 4g, khổ qua 1g, tỳ giải 2g. Sao vàng hạ thổ, đóng gói 10g/gói, ngàyuống 2 - 3 gói pha nước đun sôi uống, không được cho đường vào.
Trị hắc lào: tráichuối xanh còn ở trên cây đem cắt đôi hứng lấy nhựa bôi hoặc đem quả phơi, sấykhô tán nhỏ, rây bột mịn, dùng uống hàng ngày chữa viêm loét dạ dày với kết quảtốt.
Xổ giun: quả chuối hột chín ăn vào lúc đói thấy ra giun.
Không được ăn quả chuối rừng còn xanh (chưa chín) vì rất dễbị ngộ độc hoặc đại tiện khó
nặng vì quá nhiều chất tanin.
Hạt chuối hột
Chuối hột dùng để chữa bệnh là chuối có nhiều hạt, hạt vỏđen bên trong có bột trắng. Cách lấy hạt chuối hột cũng rất kỳ công, phải đểchuối chín mới lấy hạt được, hạt được sao khô thơm nhẹ. Hạt chuối hột có thểdùng để ngâm rượu hoặc tán nhỏ sắc uống hàng ngày.
Giảm đau, tiêu sưng, chữa đau lưng, chân tay nhức mỏi, thấpkhớp: 200g giã nát ngâm với rượu 40 độ (1.000ml) trong 10 ngày để càng lâu càngtốt, thỉnh thoảng lắc đều. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 15ml vào trước bữa ăn haytrước khi đi ngủ, có thể thêm đường cho dễ uống.
Trị sỏi thận, sỏi bàng quang: dùng hạt chuối hột rang giòn,giã nát, rây bột mịn. Mỗi ngày dùng 2 thìa canh bột cho vào ấm chế nước sôi phatrà uống. Trong thời gian uống thuốc thấy có chất lắng đục ở đáy công cụ
đựngnước tiểu qua đêm. Uống liên tiếp
trong 30 ngày, sỏi ra hết thành những viênnhỏ. Kết quả rất tốt.
Vỏ quả chuối hột
Trị đau bụng kinh niên: vỏ quả chuối hột 40g, phơi khô, saohơi vàng, tán bột; quế chi 4g; cam thảo 2g tán bột. Trộn đều hai bột, luyện vớimật làm viên, uống 2 - 3 lần trong ngày với nước ấm.
Trị đau bụng, tiêu chảy: vỏ quả chuối rừng đã chín vàng,thái nhỏ, phơi khô. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 4 - 8g, hãm nước sôi uống.
Trị kiết lỵ: vỏ quả chuối hột, rễ gai tầm xọng, vỏ quả lựu,rễ tầm xuân, mỗi thứ 20g; búp ổi 10g, phơi khô, sắc uống.
Hoa chuối hột
Hoa chuối có vị hơi chát và ngon ngọt...
Hoa chuối hột thái nhỏ, luộc hoặc làm nộm ăn để tăng tiếtsữa ở đàn bà mới sinh con.
Hoa chuối ăn hoặc sắc nước uống khiến cho
nước tiểu trong vàgiúp thận hòa tan các loại acid dễ đóng cặn trong thận và bàng quang.
Hoa chuối là nguồn bổ sung chất xơ rất tốt, vì vậy nên ănhoa chuối để thêm chất xơ cho ruột, chống đại tiện khó
ở người cao tuổi.
Đặc biệt người ta thấy rằng hoa chuối hầu như không có sâubao giờ, vì vậy có thể dùng thay thế các chất xơ của các loại rau khác mà dolợi ích kinh tế người ta dùng quá nhiều hóa chất để trồng.
Lá chuối hột
Trị băng huyết, nôn ra máu: lá chuối hột phơi khô 10g, mốccây cau 20g, tinh tre 20g. Tất cả đốt tồn tính, tán nhỏ, hòa với nước uống.
Mát phổi, bổ phổi, tiêu độc: lá bắc (lá màu đỏ bao bọc buồngchuối) và hoa chuối hột sắc uống.
Thân chuối hột
Trị đau nhức răng: thân chuối hột còn non, cắt đoạn, nướngchín rồi ép lấy nước, ngậm với ít muối.
Cầm máu vết thương: dùng lõi thân cây chuối rừng đập dập,đắp vào vết thương.
Lõi thân cây già thái và giã nát, vắt nước uống sẽ làm tiêukhát.
Hỗ trợ định hình
đường huyết: chọn cây chuối hột có bắp đangnhú, cắt ngang cây (cách mặt đất 20 - 25 cm) và khoét một lỗ rỗng to ở thânchuối, để một đêm, sáng hôm sau múc nước từ lỗ rỗng (do gốc thân cây chuối tiếtra) mà uống. Dùng thường xuyên sẽ định hình
được đường huyết.
Theo tài liệu ngoại quốc
, nước sắc thân và lá chuối hột cóchức năng lợi tiểu chữa phù thũng.
Chuối rừng làm rau sống là những cây chưa trổ buồng, dướimột năm tuổi. Người ta tước bỏ lớp vỏ bên ngoài màu tím, lấy phần xơ lưới màutrắng và vỏ lụa bên trong. Bẹ chuối sau khi tước vỏ bó lại và thái ra sợi nhỏnhư thuốc rê.
Đồng bào địa phương khi đi rừng khát nước thường chặt câychuối rừng, lấy thân tước bỏ lớp vỏ, dùng lõi ăn sống hoặc ép lấy nước uống chomát. Người đi rừng thành thạo luôn tìm tới đóng trại ở những thung lũng có câychuối rừng, đó là nơi có nguồn nước tinh khiết và nhiều nhất trong mùa hè.
Củ chuối hột
Trị cảm nóng, sốt cao, háo khát, mê sảng: củ chuối hột đemcạo bỏ vỏ ngoài, rửa tinh khiết
, cắt miếng, giã nát, ép lấy nước uống.
Trị ho ra máu: củ chuối hột phối hợp với tầm gửi cây dâu, rễcỏ tranh, thài lài tía, mỗi thứ 12g, thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml,uống làm hai lần trong ngày.
Trị kiết lỵ ra máu: củ chuối hột phối hợp với củ sả, tầm gửicây táo hoặc vỏ cây táo, mỗi thứ 4g, sao vàng, sắc uống.
Trị tim hồi hộp, hay mơ, đêm về trằn trọc khó ngủ: củ chuốihột 20g, nấu chung với 1 quả tim heo (200 - 300g), uống nước, ăn tim.
Hỗ trợ định hình
đường huyết: đào lấy củ cây chuối hột, rửatinh khiết
, giã nát ép lấy nước uống, dùng thường xuyên và vĩnh viễn có chức năng ổnđịnh đường huyết (dành cho người bệnh đái tháo đường týp 2).
Đồng bào Thái ở Tây Bắc lại dùng củ chuối hột sắc uống vớicủ chuối rừng và rễ cây móc, mỗi thứ 10 - 12g để làm thuốc an thai.
Nước hãm củ chuối hột uống mát, tiêu khát, giải độc, kíchthích tiêu hóa.
Thân và củ chuối đem um với cá lóc, lươn đồng là món ăn -phương thuốc
có chức năng bồi bổ khá tốt. Lươn hoặc cá lóc cung ứng
protein và cácchất bổ, củ chuối kích thích tiêu hóa, giúp tăng cảm giác muốn ăn, dễ hấp thu.
Rượu chuối hột rừng
Một trong những “công trình” được ưa chuộng của chuối hột rừnglại chính là rượu chuối hột rừng đang được các nhà tạo ra đon đả chế biếnvà quảng bá rộng rãi.
Rượu chuối hột: 1kg chuối hột rừng ngâm khoảng 2 - 2,5 lítrượu ngon 40 - 45 độ, rượu có vị ngọt thơm, màu vàng nhạt. Dùng chữa bệnh thận,sỏi thận, đái tháo đường, đau lưng, nhức mỏi xương khớp, tráng dương, tăngcường sức khỏe phái mạnh, giải nhiệt, bệnh dạ dày, kích thích tiêu hóa, bổthận, lợi tiểu, trị kém ăn, kém ngủ, bồi bổ cơ thể…
Tuy nhiên, để cho rượu chuối ngon và thu hút, cần chế biếnmới đạt yêu cầu.
Cách ngâm rượu chuối hột ngon:
Chuối phải thật chín, thái mỏng, phơi nắng (nhớ là phải giữkhông cho ruồi nhặng bu vào và bụi bay vào), phơi càng khô càng tốt.
Rượu ngâm phải là rượu trắng, không pha tạp (thường gọilàrượu cốt,rượu nguyên chất, nồng độ phải > 40 độ).
Đồ ngâm rượu phải là thủy tinh, rửa tinh khiết
. Bỏ chuối vào,chuối chiếm 1/3 lọ, đổ rượu đầy 2/3 lọ, để lại 1/3 chân không cho chuối nở. Đậykỹ nắp, 100 (3 tháng 10 ngày) ngày sau là uống được , để càng lâu càng tốt.
Rượu chuối hột được xếp vào loại rượu thuốc, không nên ngâmuống để nhậu xỉn.
Rượu chuối hột để hỗ trợ điều trị bệnh sạn thận, bổ thận:liều lượng mỗi bữa ăn 1/2 tách uống trà (10 - 20ml).
Các vị thuốc gia giảm phải theo từng người: cao, hạ huyếtáp, nhiệt, hàn, cần bổ khí, cần bổ huyết… không nên tùy tiện dùng sẽ phản tácdụng.
Lương y HOÀNG DUY TÂN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét