óng nuột như tiên nữ bay lượn trên mặt hồ cho nên còn gọi là “lăng ba tiên tử”. Theo dược học cổ truyền, hoa thủy tiên vị đạm, tính mát; rễ cây hoa vị cay đắng, tính lạnh; có tác dụng khứ phong thanh hao nhiệt, hoạt huyết điều kinh, tiêu thũng giải độc; được dùng để chữa các chứng bệnh như kinh nguyệt không đều, thiếu phụ
ngũ tâm pnhân hậu nhiệt (nóng lòng bàn tay, bàn chân và vùng giữa ngực), mụn nhọt, viêm loét, viêm tuyến vú, quai bị, viêm hạch… Y thư cổ Bản thảo cương mục cho rằng, hoa thủy tiên có công năng “khứ phong khí”.
Hoa trà my. |
Hoa trà my:
Trà my là loài thảo mộc thân gỗ, hoa nở vào cuối đông đầu xuân, kéo dài hàng tháng, để lâu không héo tàn, búp hoa to, màu sắc rực rỡ như màu đỏ, vàng, trắng. Theo dược học cổ truyền, hoa trà my vị ngọt đắng, tính mát, có tác dụng lương huyết, lãnh đạoết và tán ứ, dùng để chữa các chứng thổ huyết, chảy máu cam, băng huyết, kiết lị ra máu, bị bỏng, tổn thương do trật đả và các bệnh lý da liễu. Ví như, dùng hoa trà 12g, than lá ngải 12g, tiên hạc thảo 15g, sắc uống để trị băng huyết ở thiếu phụ
; hoa trà lượng vừa phải, ngnhân hậu thành bột mịn, cho nước hoặc giấm ăn vào trộn đều rồi bôi ngoài da để chữa các vết thương hoặc trộn với dầu vừng để chữa bỏng.
nảy lộc, hoa mơ nở bung, từng đoá hoa nho nhỏ, màu trắng phớt hồng. Truyền thuyết về “rừng mơ” lại có quan hệ hết sức mật thiết với Đông y. Tương truyền, Đổng Phụng, người nước Ngô thời Tam Quốc ẩn cư ở núi Lư Sơn, chuyên chữa bệnh cứu người mà không bao giờ lấy tiền công, chỉ cần người bệnh nặng trồng 5 cây mơ, người bệnh nhẹ trồng 1 cây mơ để báo đáp. Sau nhiều năm như thế, số người được chữa trị rất đông nên số cây mơ trồng được đã lên đến hơn mười vạn gốc, xanh tươi
thành rừng.
và các chứng bệnh về da liễu...
ThS. Hoàng Khánh Toàn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét