14/3/16

Bệnh Basedow có nguy khốn?

By
SKĐS - Basedow là bệnh tự miễn, được đặc trưng bởi cường chức năng tuyến giáp do các kháng thể kích thích tuyến giáp xuất hiện và lưu hành trong máu. Đây là bệnh lý thường gặp trong các bệnh nội tiết, chiếm khoảng 10-30% các bệnh lý tuyến giáp.

Nguyên nhân gây bệnh

Basedow là một bệnh phổ biến trong các bệnh nội khoa nói chung và các bệnh nội tiết nói riêng. Bệnh gặp ở nữ nhiều hơn nam (80%),kì cục là đàn bà trẻ từ 21-30 tuổi. Bệnh liên quan mật thiết đến nồng độ estrogen ở nữ. Có nhiều nhân tố tác động gây bệnh như: nhân tố gen, miễn dịch, môi trường... làm chỉnh sửa tính kháng nguyên và trình diện kháng nguyên lạ trên bề mặt tế bào tuyến giáp kích thích hệ miễn dịch của cơ thể tạo ra ra tự kháng thể hormon TRAb. TRAb gắn vào receptor của hormon TSH tại màng tế bào tuyến giáp kích thích làm tế bào tuyến giáp phát triển về mặt số lượng, tăng mạnh hoạt động tác dụng, tổng hợp và giải phóng nhiều hormon tuyến giáp vào trong máu, gây nên các biểu thị nhiễm độc giáp và các biểu thị tự miễn trên lâm sàng.

Siêu âm tuyến giáp.

Biểu hiện của bệnh

Bệnh Basedow thường có biểu thị của hội chứng cường giáp, với các triệu chứng ăn khỏe, tinh thần bất ổn, nhịp tim nhanh thường xuyên, hơn 90 lần/phút, tiếng tim đập mạnh; huyết áp tăng; hình thành bướu cổ lan tỏa; run đầu chi; gầy sút cân dù rằng ăn thông thường hoặc ăn nhiều; mắt lồi; tính tình thất thường, hay cáu gắt hoặc rơi vào trạng thái trầm cảm; rối loạn điều hòa thân nhiệt với biểu thị da nóng ẩm, có tăng nhẹ nhiệt độ; rối loạn tiêu hóa; rối loạn sinh dục biểu thị bằng suy giảm ham muốn tình dục, rối loạn kinh nguyệt…

Khi có các dấu hiệu trên, bệnh nhthân thiết đến bệnh viện chuyên khoa nội tiết để được khám. Tại biện viện, các bác sĩ có các phương pháp cận lâm sàng, giúp chẩn đoán bệnh đúng mực hơn. Các chẩn đoán cận lâm sàng được thực hiện ở bệnh viện như: xét nghiệm chẩn đoán hormon; xạ hình tuyến giáp; siêu âm tuyến giáp; siêu âm Doppler mạch tuyến giáp, điện tâm đồ, chụp Xquang, xét nghiệm men gan… Từ các xét nghiệm này, dựa dẫm chỉ số bất thường, bác sĩ sẽ xác định bạn có bận bịu bệnh không? Bệnh đang ở giai đoạn nào? Để đưa ra phác đồ điều trị có lí, bình yên và hiệu quả.

Đây là bệnh rất gian nguy cho hệ tim mạch, nếu không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách, người bệnh sẽ tử trận trong tình trạng suy tim, suy kiệt vàkì cục là trong tình trạng cơn bão giáp, một biến chứng rất nặng của bệnh. Khi bị cơn bão giáp, người bệnh sẽ sốt cao 40-41oC, tinh thần hoảng sợ, lo sợ hoặc kích thích dữ dội, tim đập rất nhanh…

Điều trị bệnh như thế nào?

Trên thế giới hiện áp dụng 3 phương pháp điều trị bệnh Baseodw là điều trị nội khoa, xạ trị và phẫu thuật cắt gần toàn thể tuyến giáp. Tuy nhiên ở Việt Nam người ta ưu tiên dùng phương pháp điều trị nội khoa. Có nhiều lý do khiến các chuyên gia nội tiết khuyến cáo dùng phương pháp điều trị này như: tỷ trọng lui bệnh cao, ít gây suy giáp trường diễn, ít ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất, trí tuệ so với điều trị xạ hoặc phẫu thuật.

Điều trị nội khoa: đây là phương pháp điều trị được ưu tiên hàng đầu, được chỉ định khi bệnh mới phát hiện, tuyến giáp to vừa, không có nhân Basedow, chưa có biến chứng, người bệnh có điều kiện điều trị vĩnh viễn theo dõi bệnh.

Hiện có 3 loại thuốc kháng giáp được dùng trong điều trị nội khoa là methimazole, carbimazole và PTU. Trong máu, carbimazole được chuyển hóa thành MMI, vì thế trên thực tế có thể coi có 2 loại thuốc kháng giáp chủ đạo là MMI và PTU.

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh PTU độc hơn và  không dễ dãi dùng hơn so với MMI. Vì thế FDA đã khuyến cáo không dùng PTU trong điều trị ban đầu cho người bệnh Basedow.

Hầu hết các trường hợp trở về bình giáp sau 1-2 tháng điều trị, tỷ trọng lui bệnh hoàn toàn đạt 60-70% sau 12-18 tháng điều trị. Thuốc kháng giáp có tác dụng ức chế enzyme TPO, vì thế ức chế tất cả các giai đoạn trong quá trình tổng hợp hormon tuyến giáp. Bên cạnh đó thuốc kháng giáp còn có tác dụng ức chế miễn dịch, ức chế hoạt động của tế bào tại tuyến giáp, làm giảm tạo ra các tự kháng thể. Tuy nhiên thuốc kháng giáp không ức chế được hoàn toàn căn nguyên tự miễn. Vì thế tỷ trọng tái phát bệnh sau khi ngừng thuốc khá cao tới 50-60% sau ngừng thuốc 1 năm.

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị và tái phát sau khi ngừng thuốc như: nồng độ TRAb lúc chẩn đoán, lúc hoàn thành điều trị, mức độ bệnh, nồng độ T3, T4 lúc chẩn đoán, thể tích tuyến giáp, các biểu thị tự miễn trên lâm sàng (tiếng thổi tại tuyến lúc chẩn đoán, các biểu thị về mắt, phù niêm), thời gian điều trị, sự chấp hành của người bệnh…

Điều trị bằng phóng xạ trị Iod 131: mục đích điều trị bệnh Basedow bằng Iod 131 là khiến cho bướu tuyến giáp nhỏ lại, đưa tác dụng tuyến giáp từ cường năng về thông thường (bình giáp). Biện pháp này được thực hiện sau khi điều trị nội khoa bằng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp không khỏi, tái phát hoặc không thể điều trị tiếp do dị ứng thuốc, viêm gan, giảm bạch cầu…; người bệnh có chẩn đoán xác định là Basedow mà không đồng ý phẫu thuật, không có chỉ định điều trị phẫu thuật hoặc tái phát sau phẫu thuật. Đối với trẻ em trên 10 tuổi Iod 131 là liệu pháp có hiệu quả, tương đối bình yên để điều trị trước tiên hoặc thay thế cho qui định nội khoa.

Chỉ định: đối với người bệnh trên 30 tuổi; bệnh tái phát nhiều lần mà không phẫu thuật được; người lớn tuổi, không có điều kiện điều trị nội khoa vĩnh viễn và đau khổ trong theo dõi; người bệnh có chống chỉ định với phẫu thuật (suy tim, tâm thần).

Chống chỉ định: Biện pháp điều trị này không được áp dụng cho các trường hợp: trẻ em, đàn bà có thai hoặc đang cho con bú; người bệnh có tình trạng nhiễm độc nặng, có nguy cơ xảy ra cơn bão giáp; bướu tuyến giáp quá lớn có biểu thị chèn ép gây nuốt nghẹn, sặc, không thở được thì nên chỉ định điều trị phẫu thuật; người bệnh nhiễm độc giáp không do cường giáp và cường giáp thứ phát; bướu có độ tập trung iod thấp; có nghi ngại ung thư tuyến giáp.

Bướu cổ - một trong những biểu thị của bệnh basedow.

Điều trị Basedow bằng iod 131 đạt hiệu quả tối đa sau 8 đến 10 tuần. Nếu bướu tuyến giáp nhỏ lại, tác dụng tuyến giáp trở về thông thường, thì không cần xử trí gì thêm. Bệnh nhthân thiết tái khám theo dõi định kỳ 6 tháng -1 năm/lần. Nếu người bệnh bị nhược giáp sau khi điều trị bằng iod 131 thì cần phải bổ sung hormon tuyến giáp thay thế. Sau khi điều trị xong liệu trình mà người bệnh vẫn còn tình trạng cường giáp (bướu còn to, mức độ cường năng vừa hoặc nặng), có chỉ định điều trị lần hai sau 3 - 6 tháng. Trường hợp bướu đã nhỏ nhiều, mức độ cường năng còn nhẹ cần phải cân nhắc theo dõi thêm.

Phương pháp này chống chỉ định ở đàn bà có thai, cho con bú vì trong quá trình điều trị gây suy giáp ở trẻ sơ sinh. Khi có chửa 3 tháng đầu, dùng PTU liều tối thiểu vì thuốc  qua rau thai ít hơn thiamazol. Lưu ý, trong suốt quá trình có chửa phải dùng liều thấp nhất thiamazol để duy trì T4 ở mức giới hạn trên thông thường, theo dõi để điều chỉnh liều thuốc kháng giáp. Với đàn bà đang cho con bú cũng nên dùng PTU vì ít qua sữa mẹ, không nên dùng thiamazol.

Ngoại khoa: qui định này chỉ được lựa chọn khi bệnh đã được điều trị bằng thuốc ít nhất 4 - 6 tháng mà không duy trì được bình giáp khi ngừng thuốc; tình trạng cường giáp tuy bất biến nhưng bướu giáp không nhỏ lại; bướu giáp to gây mất thẩm mỹ, có các biểu thị chèn ép gây không thở được hoặc ảnh hưởng xấu đến thẩm mỹ; Basedow ở trẻ em điều trị bằng nội khoa không kết quả; người bệnh không có điều kiện điều trị nội khoa… Với những người bệnh bị Basedow nặng có những rối loạn bệnh lý không phục hồi trong cơ quan nội tạng,kì cục hệ tim mạch thì không được dùng qui định phẫu thuật.

Nguyên tắc là cắt bỏ gần toàn thể tuyến, chỉ để lại một phần nhỏ khoảng 3-6gr để duy trì tác dụng tạo hormon thông thường.

Đề phòng cơn nhiễm độc giáp kịch phát có thể xảy ra sau khi mổ, chỉ được tiến hành phẫu thuật khi người bệnh đã bình giáp. Mặt khác để chống chảy máu, khiến cho tuyến giáp chắc lại, phần nào chặn lại cơn nhiễm độc giáp kịch phát xảy ra, 2-3 tuần trước khi mổ cho điều trị phối hợp các thuốc có iod. Khi có giảm tác dụng vỏ thượng thận 2-3 tuần trước khi phẫu thuật cho prednisolon. Bệnh nhân sau mổ cần được theo dõi ngoại trú 2 năm liền, khám định kỳ 3-6 tháng/lần.

Các biến chứng sau mổ có thể gặp là: suy tác dụng tuyến giáp; bệnh tái phát quay về; bệnh não sau nhiễm độc hormon giáp hay gặp ở nam giới; cơn nhiễm độc hormon giáp kịch phát; liệt dây thần kinh quặt ngược, têtani, chảy máu sau mổ.

Bên cạnh đó, sau mổ, người bệnh có thể gặp phải các biến chứng ngoài mong muốn khác như: khàn tiếng, hạ calci máu, nhiễm trùng vết mổ... Nhưng ngày nay với sự hiện đại vượt bậc của y học và kỹ thuật mổ, tỷ trọng biến chứng trong các ca mổ tuyến giáp còn rất thấp, dưới 1%.

 

TS.BS.Nguyễn Minh Hùng

0 nhận xét:

Đăng nhận xét