18/3/16

Những biến chứng tiềm ẩn khi có chửa & sinh đẻ

By
Một số vấn đề và bệnh nghiêm trọng có thể nảy sinh trong khi mang thai và sinh nở. Những biến chứng phổ biến là thai ngoài tử cung, nhiễm trùng do virus herpes, bệnh sởi (rubella), bệnh toxoplasma,

ThS. Lê Khánh Vân

Một số vấn đề và bệnh nghiêm trọng có thể nảy sinh trong khi có chửa và sinh đẻ. Những biến chứng phổ biến là thai ngoài tử cung, nhiễm trùng do virus herpes, bệnh sởi (rubella), bệnh toxoplasma, tiền sản giật và sản giật, sảy thai và sinh non. Người thiếu phụ cũng có thể phải chịu bất cứ các vấn đề khác ngoài những vấn đề trên khi có chửa, chẳng hạn như buồn nôn vào buổi sáng, bệnh trĩ và chứng sạm da.

Thai ngoài tử cung

Nếu trứng được thụ tinh làm tổ bên ngoài tử cung thì sẽ gây nên chứng có chửa lạc vị, loại có chửa lạc vị phổ biến nhất là có chửa trong vòi trứng. Trừ khi được phát hiện và lấy ra sớm, còn không thì phôi thai sẽ tạo ra cho đến khi vòi bị vỡ, gây ra hiện tượng xuất huyết, khiến thiếu phụ cực kì cực khổ và một số trường hợp có thể dẫn đến tử chiến. Phụ nữ có thể nhầm lẫn giữa việc có chửa tầm thường với có chửa lạc vị, vì ít nhất ở thời kỳ đầu nó cũng có các dấu hiệu tầm thường như có sự chỉnh sửa hormon, mất kinh, buồn nôn vào buổi sáng. Mang thai lạc vị có thể tự sảy thai, mặt khác cần phải tiến hành phẫu thuật để lấy thai ra ngay sau khi phát hiện. Hầu hết thiếu phụ sau khi có chửa lạc vị vân có thể có con lại tầm thường.

Nhiễm trùng do virus herpes

Nhiễm trùng do virus herpes gây ảnh hưởng chính yếu đến thai nhi hơn là người mẹ. Nó có thể lây truyền qua đường tình dục và lây từ mẹ sang con. Những người lớn bị nhiễm trùng do virus herpes thường không thấy có triệu chứng gì, trong khi đó thai nhi bị lây nhiễm từ mẹ có nguy cơ bị dị dạng cao, chẳng hạn như chậm tạo ra, động kinh, liệt não, mù hoặc điếc. Hiện nay, chưa có cách chữa trị hay vaccine phòng chống nhiễm trùng do virus herpes.

Bệnh rubella

Phơi nhiễm virus rubella, hay bệnh sởi Đức, trong thời gian có chửa gây ra các nguy cơ trầm trọng đối với sự tạo ra của thai nhi, không giống nhau là ở 3 tháng đầu. Sự thiếu hụt bẩm sinh gây ra bởi bệnh rubella gồm: tạo ra trước ktừ trần chậm, các khác thường ở nhiễm săc thể mù, điếc, tổn thương não, các tổn thương ở tim. Tiêm chủng khi còn bé sẽ giúp phòng ngừa bệnh rubella và việc tiêm chủng này có tính năng đến suôt đời. Bất kỳ thiếu phụ nào có dự định có chửa nhưng chưa từng bị rubella hay chưa tiêm phòng cần tiêm ngừa trước khi có thai.

Bệnh toxoplasma

Bệnh toxoplasma bắt nguồn từ ký sinh trùng toxoplasma gondii, ký sinh trùng này có trong thịt nấu chưa chín và phân động vật. Mèo là nguồn chính gây nhiễm bệnh toxoplasma cho con

người. Nhưng người bị nhiễm bệnh này thường có ít triệu chứng, trong khi đó thai nhi nhiễm bệnh có thể bị hỏng não, hoặc chêt lưu. Sulfasiazine một loại thuốc nhóm sunfonamide có thể được dùng mà không gây hại đến thai nhi, để điều trị bệnh này trước ktừ trần hai tháng.

Tiền sản giật và sản giật

Phụ nữ bị tiền sản giật hay “nhiễm độc huyết” sẽ bị tăng huyết áp, giữ nước mạnh và phù khi có chửa. Các triệu chứng của bệnh này thường từ mức độ nhẹ (phù tư chi) đến nặng (co giật và tử chiến). Nhiễm độc huyết nặng được gọi là sản giật. Nguyên nhân đúng mực gây ra nhiễm độc huyết hiện vẫn chưa được biêt, tuy nhiên dinh dưỡng không trọn vẹn có thể là một phần nguyên nhân.

Sảy thai

Sảy thai là sự sảy một cách tự phát của thai nhi không thể sống được (thai không co khả năng sống ở ngoài tử cung) ít hơn 20 tuần tuổi. Vì người thiếu phụ có thê nhầm sảy thai với có kinh trước khi biết là mình có thai nên việc xác định số ca sảy thai hàng năm là một việc gian truân. Tuy nhiên, theo ước tính có khoảng 20% thiếu phụ có chửa ở Mỹ bị sảy thai, đa số những trường hợp sảy thai này hiện ra ở 3 tháng đầu của thai kỳ. Những khác thường ở nhiễm săc thể và có chửa khi tuổi đã cao (trên 35 tuổi) là những nguyên nhân chính dẫn đến việc sảy thai.

Sinh non

Trẻ sinh non chiếm khoảng từ 7- 10% trong số những trẻ em được sinh ra ở Mỹ, trẻ sinh non nặng dưới 2,5kg và được sinh ra khi thai ít hơn 36 tuần tuổi. Mặc dù những nguyên nhân gây ra việc sinh non vẫn chưa được biết, nhưng sinh non có thể liên quan đến biện pháp ăn uống thiếu thốn, dùng rượu và thuốc khi có chửa, hút thuốc lá thiếu sư chăm bẵm trước ktừ trần hay có tiền sư sảy thai trước đó. Như đã biết, trẻ sơ sinh càng nhẹ cân càng ít có cơ hôi sống. Trẻ sinh non thường gặp các vấn đề xuất huyết, gặp gian truân khi thở, bú sữa và tiêu hóa. Những vân đề này thường mất đi khi đứa trẻ tăng cân.

Kiểm tra để phát hiện những bất thường khi có chửa

Một số phép tắc chẩn đoán có thể kiểm tra xem bào thai có khả năng bị các dị tật hay khiếm khuyết nào không. Một trong số những phép tắc phổ biến nhất được dùng là chẩn đoán bằng siêu âm. Chẩn đoán bằng siêu âm liên quan đến việc chụp ảnh chuyển động của bào thai và không giống nhau có lợi trong việc chẩn đoán các rối loạn trước ktừ trần, theo dõi nhịp tim của thai nhi và biết trước được giới tính của thai. Hiên tại, không có bằng chứng nào chứng minh rằng sóng siêu âm gây hại đến thai nhi hay người mẹ cả. Các kiểm tra bằng việc chọc ối giúp biết xem có sự nhiễm trùng bào thai hay các khác thường về nhiễm sắc thể hay không. Bác sĩ xác định địa điểm bào thai bằng phép tắc siêu âm để tránh đâm vào bào thai, rồi sau đó dùng một cái kim rỗng để rút dịch ở túi ối. Phương pháp chọc ối này thường được thực hiện khi thai được khoảng 15 tuần tuổi. Phương pháp này cho phép cha mẹ có đủ thời gian để quyết định xem có giữ thai lại cho đến ktừ trần nếu như thai có những khuyết tật nặng hay không. Kết quả kiểm tra bằng phép tắc này thường có trong vòng từ 3-4 tuần. Nguy cơ gây sảy thai do chọc ối ít hơn 1%.

(ThS. Lê Khánh Vân)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét