17/12/16

Y học cổ truyền - Cỏ mực - Loài rau lương huyết

By
SKĐS - Cỏ mực có tên khoa học là Eclipta alba Hassk thuộc họ Cúc Asteraceae. Gọi là “mực” vì vò nát có nước chảy ra như mực đen.

Đây là cây thuốc không lạ lẫm

, chủ trị xuất huyết, nội tạng, viêm gan mạn...

Mô tả cây

Cỏ mực có tên khoa học là Eclipta alba Hassk thuộc họ Cúc Asteraceae. Gọi là “mực” vì vò nát có nước chảy ra như mực đen. Gọi là “rau” vì mầm non của nó cũng được dùng như một loại rau. Do có màu đen nên cây rau này cũng được xem xét
trong nhóm thức ăn, thuốc màu đen với nhiều triển vọng cho những tác dụng quý như để chống lão hóa. Cỏ mực từ lâu có trong kho tàng Nam dược thần hiệu. Cây mọc hoang khắp nơi và ở đâu người ta cũng biết dùng để cầm máu. Thu hái từ tháng 2 đến tháng 8, phơi khô trong râm mát (âm can) bảo quản cẩn thận
để dùng khi không có cây tươi. Cách dùng dễ dàng
tươi hay khô và không phải bào chế gì cả. Theo kinh nghiệm dùng cây có hoa tốt hơn.

Cỏ mực tính lạnh, vị ngọt chua, không độc. Có tác dụng lương huyết (mát huyết) lãnh đạoết, tkhô giòn can nhiệt, dưỡng thận âm, làm đen râu tóc. Chủ trị xuất huyết nội tạng (chảy máu dạ dày, ỉa đái ra máu, thổ huyết do lao, rong kinh) chữa kiết lỵ, viêm gan mạn, chấn thương sưng tấy lở loét mẩn ngứa (uống trong, rửa ngoài). Thần nông bản thảo nói: “Là thuốc cầm máu nhiều người biết đến
…”. Đường bản thảo nói: “Rau mặc chủ huyết lỵ, người bị chảy máu dữ dội. Dùng nó đắp và bôi nước lên đầu tóc sẽ mọc lại nkhô giòn chóng”. Điền nam bản thảo nói: “Rau mặc làm chắc răng, đen tóc chữa khỏi 9 loại trĩ”. Bản kinh cách đây 2.000 năm nói: “Máu chảy không cầm đắp rau mặc cầm ngay”. Kỵ dùng khi có âm hư không có nhiệt, tỳ vị hư hàn, ỉa chảy. Ngày nay được dùng nhiều trong điều trị sốt xuất huyết muỗi truyền, ung thư (cancer) và nhiều bệnh khác.

Thành phần hóa học trong cỏ mực có tinh dầu, tannin, chất đắng (glucozit caroten và ancaloit tên ecliptin có tài liệu nói là nicotin) 1959 Govindathân phụ
ri TR và CS chiết được từ cỏ mực chất wedelolacton là một cumarin lacton (trong cây sài đất cũng có chất này) 1972 K.K Bharagava tách được demetylwedelolacton và một flavonozit.

Về tác dụng dược lý: Viện Dược liệu và bộ môn Dược lý Đại học Y Hà Nội (1961) đã nghiên cứu tác dụng cầm máu và độc tính của cỏ mực cho biết: nước sắc cỏ mực khô thí nghiệm trên khỉ thấy giảm thời gian Quick rõ rệt, có nghĩa rằng cỏ mực làm tăng tỉ lệ prorombin toàn phần. Cỏ mực cũng giống vitamin K chống lại tác dụng của dicumarin (thuốc chống đông). Đối với hiệu quả cầm máu ở tử cung là do 2 tác dụng tăng prothrombin đồng thời tăng trưởng lực tử cung, nén thành tử cung. Cỏ mực không gây giãn mạch, không hạ huyết áp, có thể gây sảy thai. Về độc tính thử trên chuột nhắt trắng với liều 5 - 80 lần liều vẫn quen dùng trên lâm sàng của Đông y, chưa thấy hình thành độc tính.

Một số phương thuốc
dùng cỏ mực cầm máu từ xưa

Chảy máu mũi đêm ngày không dứt: cỏ mực giã nát đắp giữa mỏ ác và trên trán là khỏi (Nam dược thần hiệu).

Chữa thổ huyết và chảy máu cam: dùng cỏ mực cả cành và lá tươi giã lấy nước, chế thêm nước tiểu (của nhi đồng thì tốt hơn) để uống.

Ỉa ra máu: cỏ mực nướng trên miếng ngói sạch sẽ cho khô, tán bột. Mỗi lần dùng 2 chỉ (8g) với nước cơm (gia tàng kinh nghiêm phương).

Đái ra máu: cỏ mực, mã đề 2 vị bằng nhau giã lấy nước ngày uống 3 chén lúc đói (Y học chân truyền). Cháo cỏ mực nấu cháo cỏ mực 100g với 3 lát gừng (cỏ mực lọc lấy 400ml nước nấu cháo).

Trĩ ra máu: một nắm cỏ mực để nguyên rễ giã nhuyễn như bùn, cho vào 1 chén rượu nóng thành dịch đặc vừa uống trong, vừa đắp bã ngoài (Bảo thọ đường phương).

Chảy máy dạ dày hành tá tràng: rau mặc 50g, bạch cập 25g, đại táo 4 quả, cam thảo 15g sắc uống, ngày 1 thang chia làm 2 lần.

Vết đứt chém nhỏ chảy máu: một nắm cỏ mực sạch sẽ nhai vò hoặc giã nhuyễn đắp lên vết thương.

Chữa trị một số bệnh người lớn

Chữa râu tóc bạc sớm:

Cao cỏ mực: cỏ mực với lượng tùy dùng, rửa sạch sẽ nấu cô đặc thành cao rồi cho nước gừng, mật ong với lượng vừa phải, cô lại lần nữa. Cho vào lọ khi dùng lấy 1 - 2 thìa canh hòa nước đun sôi còn ấm hoặc cho ít rượu gạo để uống. Ngày 2 lần cao này có tác dụng bổ can thận, ích tinh huyết.

Viên cỏ mực: cỏ mực 1 - 2kg cho vào nước ép lấy dịch đặc trộn với bột nữ trinh tử đã được chế sẵn như sau: nữ trinh tử 300 - 1.000g ngâm rượu 1 ngày, bóc vỏ, rang khô tán bột. Viên hoàn bằng mật ong. Mỗi lần uống 10g. Ngày uống 3 lần với rượu gạo hâm nóng. Hoàn này bổ can thận, xanh đen râu tóc, khỏi đau lưng gối. (Không nhầm Nữ trinh tử với Trinh nữ tử (hạt mắc cỡ, xấu hổ).

Ngoài 2 công thức dễ dàng
giới thiệu trên còn nhiều công thức hòa hợp cỏ mực với nhiều vị khác như câu kỷ tử, thỏ ty tử, ngũ vị tử, bách tử nhân, hà thủ ô, quả dâu chín… cho nhiều tác dụng hơn.

Chữa di mộng tinh (do tâm thận nóng): cỏ mực sấy khô tán bột. Uống ngày 8g với nước cơm hoặc sắc cỏ mực để uống ngày 30g.

Chữa trị một số bệnh thiếu phụ
, trẻ em

Chữa rong kinh: nếu nhẹ lấy cỏ mực tươi giã vắt lấy nước cốt uống hoặc cỏ mực khô sắc nước uống. Nếu huyết ra nhiều cần phối hợp thêm lá trắc bá diệp, hoặc cây huyết dụ…

Trẻ tưa lưỡi: cỏ mực tươi 4g, lá hẹ tươi 2g giã nhuyễn lấy nước cốt hòa mật ong chấm lên lưỡi cách 2 giờ 1 lần.

Trẻ hay cáu gắt, nổi khùng cắn cấu, đêm ngủ không yên (do tích trệ, khí nhiệt, can hỏa bốc): cỏ mực 20g (dưới 3 tuổi dùng 12g) thêm 2 - 3 quả táo mật. Nấu với 3 bát nước cho đến khi còn 1 bát. Chia 3 lần uống.

Trong điều trị ung thư

Cỏ mực đã được dùng để chữa ung thư các loại (phối hợp với những vị khác): K dạ dày, K tử cung, K xương, K bạch huyết, K họng. Trong đó chữa K họng chỉ dùng một vị cỏ mực 50g vắt nước uống tươi hàng ngày hoặc sắc nước uống. 

BS. PHÓ THUẦN HƯƠNG

 
Món ăn cho người bị động thaiMón ăn cho người bị động thai Những đội kèn thành NamNhững đội kèn thành Nam Chào cờ xếp hình Tổ quốc hướng về Biển ĐôngChào cờ xếp hình Tổ quốc hướng về Biển Đông

(SKĐS cuối tuần)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét