ta. Ốc sên ăn thực vật, thường phá hoại cây xanh, có thể nuôi làm thức ăn và làm thuốc.
tina fulica), còn gọi là oa ngưu, là loài động vật thân mềm sống ở nhiều nơi trên nước nhà
ta. Ốc sên ăn thực vật, thường phá hoại cây cối, có thể nuôi làm thức ăn và làm thuốc. Về mặt thực phẩm, ốc sên là một loại thức ăn giàu đạm. Sau khi chế biến, thịt ốc sên ăn cũng giòn, ngon không kém ốc nhồi dưới các dạng xào, nấu, rán... Từ ốc sên người ta có thể chế đạm thủy phân bằng acid chlohydric hoặc xút, sẽ được một loại dịch có mùi vị thơm ngon như magi dùng làm nước chấm.
Người ta ước tính rằng, cứ 100g thịt ốc sên có chứa 11g đạm (cao hơn ốc vặn, ốc bươu và các loại nhuyễn thể khác như sò, trai, hến...), 6,2g đường, 150mg Ca, 71mg P, các acid amin cơ bản
là leucin, alanin, valin, acid glutamic, acid aspartic...
Về mặt y học, từ xa xưa ốc sên đã được đông y dùng
làm thuốc với tính vị mặn hàn, có chức năng bổ dưỡng, tkhô giòn nhiệt giải độc, lợi tiểu tiêu thũng và chống co thắt.
Theo sách Namdược thần hiệu, để chữa mụn lở ở da mặt có thể dùng ốc sên giã nát, chế thêm một chút nước, phết lên giấy, để chừa một lỗ nhỏ ở giữa, đắp lên tổn thương. Sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam ghi: “...từ năm 1991, nhân dân một số vùng ở Hải Phòng và Kiến An, Thái Bình, Hải Hưng bắt ốc sên về nấu ăn chữa hen suyễn, “còn dùng để chữa đau bụng kinh niên và thấp khớp”. Theo Trung dược đại từ điển, ốc sên có chức năng tkhô giòn nhiệt, tiêu thũng và giải độc, được dùng để chữa các chứng bệnh như phong nhiệt kinh giản (co giật do sốt cao), tiêu khát (tiểu đường), hầu tý (viêm amidal, viêm họng), quai bị, loa lịch (lao hạch), ung thũng (nhọt độc), trĩ sang (trĩ viêm loét), thoát giang (sa trực tràng), vết thương do côn trùng cắn đốt...
Các y thư cổ như Bản thảo cương mục, Biệt lục, Bản thảo tân biên, Dược tính luận, Bản thảo kinh sơ, Bản thảo đồ kinh, Thánh huệ phương, Thánh tễ tổng lục, Hải Thượng y tông tâm lĩnh... cũng đã khắc ghi kinh nghiệm dùng
ốc sên làm thuốc để chữa nhiều chứng bệnh khác biệt
, trong đó có chứng thấp khớp do phong nhiệt và thấp nhiệt, chứng bệnh tương ứng với một số bệnh lý của y học văn minh. Cách dùng cụ thể như sau:
Ốc sên bắt về đập bỏ vỏ, lấy phần lưỡi ốc, còn bỏ hết ruột, mổ đầu ốc, bỏ dạ dày, thực quản rồi dùng muối và phèn chua rửa tinh khiết
hết nhớt, nấu ăn như nấu ốc thường. Ăn liền trong 7 - 10 ngày. Có thể kéo dài hàng tháng.
- Ốc sên 2 con làm thịt, nướng vàng, thái nhỏ rồi nấu lấy nước đặc. Tiếp đó, dùng măng tre 50g rửa tinh khiết
, giã nát và ép lấy nước, đem hai thứ nước trộn lại với nhau, chia uống 2 lần trong ngày.
Cho đến nay chưa có thành phầm nghiên cứu khoa học văn minh nào chứng minh tác dụng chữa bệnh xương khớp cũng như làm tăng chất nhờn ở khớp của ốc sên. Tuy nhiên, với kinh nghiệm chữa bệnh của người xưa và với giá trị dinh dưỡng giàu sang của ốc sên, có thể thấy loài nhuyễn thể này rất hữu ích cho những người mắc các chứng bệnh về xương khớp. Cũng cần nói thêm rằng, ở Pháp, người ta đã nuôi ốc sên trên quy mô công nghiệp được nhà nước hỗ trợ
và chế biến thịt ốc sên thành một món ăn - vị thuốc được nhiều người ưa thích. Hàng năm, riêng nước này đã tiêu thụ từ 5 đến 6 vạn tấn ốc thịt, trong đó có khoảng 2 vạn tấn nhập của hơn 30 nước và 2 - 4 ngàn tấn thịt ốc được đóng hộp để xuât khẩu.
Thạc sĩ Hoàng Khánh Toàn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét