Theo y học cổ truyền cả cây thơm ổi đều có tính năng
chữa bệnh. Rễ cây thơm ổi có vị ngọt đắng, tính lạnh, có tính năng
thanh khô nhiệt. Lá thơm ổi có tính mát, có tính năng
tiêu viêm sưng, chữa ngứa gãi, rắn cắn. Hoa có vị ngọt, nhạt, tính mát, có tính năng
cầm máu. Tuy nhiên tầm thường
người ta chỉ hái lá, hoa và cành về phơi khô để dùng làm thuốc chữa bệnh.
Cây thơm ổi còn gọi là cây ngũ sắc, hoa tứ quý, hoa tứ thời, mã anh đơn, ổi nho, bông ổi, người Tày gọi là nhà khí mu. Là loại cây nhỏ, dạng bụi, cao 1 - 2m. Thân vuông phủ đầy lông nháp và có gai quặp xuống. Cành vươn dài. Lá mọc đối, hình trái xoan, gốc tròn hoặc hình tim, đầu nhọn, mép khía răng đều. Cụm hoa mọc ở kẽ lá và đầu cành thành bông có dạng đầu giả hình cầu. Cả cây có mùi hăngdị kì
. Mùa hoa, quả từ tháng tư đến tháng chín. Cây mọc hoang ở nhiều nơi, thường chạm mặt
ở đồi, bãi trống, ven rừng. Hiện nay mọi người thường trồng cây để làm cây cảnh vì có hoa đẹp và nở bốn mùa. Hoa cây bông ổi có các màu đỏ, vàng cam... mọc thành chùm hoa hình cầu tương tự
hình đầu rất đẹp.
Một số phương thuốc
theo kinh nghiệm
Bài 1: Chữa cảm mạo: Cây thơm ổi, lá phụ thânnh khô, lá bưởi, lá sả, lá tre, lá hương nhu, tía tô, lá trắc bá, lá sắn dây... mỗi thứ một nắm, rửa tinh khiết
, cho vào nồi nấu nước xông trừ cảm mạo sau đó ăn cháo nóng, đắp chăn.
Bài 2: Chữa ho do lạnh: Lấy hoa thơm ổi 20g để tươi hoặc 10g phơi khô, sắc với 500ml nước còn 100ml, uống trong ngày. Dùng riêng hoặc phối hợp với hoa hòe sao đen và rễ bạch cập, mỗi thứ 8g. Có thể thêm đường cho dễ uống. Nước sắc này còn chữa cảm sốt, tăng huyết áp. Dùng liền 5 ngày.
Bài 3: Thuốc cầm máu, sát khuẩn, chữa vết thương nhỏ hẹp: Lá và hoa thơm ổi 30g phối hợp với gừng tươi 10g, phơi hoặc sấy khô, tán nhỏ, rây bột mịn, rắc vào vết thương. Ngày thay băng một lần hoặc lá thơm ổi để tươi, rửa tinh khiết
, giã đắp vào vết thương. Nếu vết thương rộng thì sơ cứu kết thúc sau đó đến cơ sở y tế để được cấp cứu.
Bài 4: Trị chứng tiêu khát của bệnh đái tháo đường: Lấy cục bộ cả cành, lá và hoa cây thơm ổi phơi khô. Thái khúc cho vào lọ đậy kín. Dùng dần, mỗi ngày lấy khoảng 40g, cho 500ml nước, sắc còn 150ml, uống thay trà hàng ngày. Có thể liên minh
thêm ǎn cháo nấu từ củ mài và củ súng thì càng tốt. Dùng liền 10 ngày.
Bài 5: Chữa mẩn ngứa: Lá và hoa thơm ổi khoảng 30 - 50g, nấu lấy nước đặc, tắm, ngâm rửa hằng ngày.
Lưu ý: Cây thơm ổi (Lantana camara L.) thuộc họ cỏ roi ngựa (Verbenaceae), tránh nhầm với cây cứt lợn (Ageratum conyzoides L.) thuộc họ cúc (Asteraceae) chữa viêm xoang mũi.
Bác sĩ Nguyễn Thị Nga
0 nhận xét:
Đăng nhận xét