25/12/16

Y học cổ truyền - Dược phẩm hỗ trợ điều trị ung thư nguồn gốc thảo mộc

By With Không có nhận xét nào:
Hiện nay, rất nhiều nghiên cứu hướng đến việc phần mềm
các thuốc nguồn gốc thảo mộc để dự phòng và điều trị ưng thư một cách riêng rẽ hoặc liên minh
với thuốc trị ung thư nguồn gốc hóa dược để làm tăng hiệu quả điều trị,

Hiện nay, rất nhiều nghiên cứu hướng đến việc phần mềm
các thuốc nguồn gốc thảo mộc để dự phòng và điều trị ưng thư một cách riêng rẽ hoặc liên minh
với thuốc trị ung thư nguồn gốc hóa dược để làm tăng hiệu quả điều trị, làm giảm sút
độc tính và các chức năng không mong muốn. Sau đây xin giới thiệu một số thuốc nguồn gốc thảo mộc:

Quercetin từ hoa hòe

 Cây chè.
Quercetin là một flavonoid có hoạt tính mạnh nhất so với các flavonoid khác, và nhiều cây thuốc, trong đó có cây hòe, có chức năng chữa bệnh do chứa hàm lượng cao quercetin. Quercetin có chức năng chống ôxy hóa, chống viêm, làm giảm sự tăng sinh tế bào gây chết tế bào theo chương trình. Quercetin có chức năng hiệp đồng với thuốc hóa dược trị ung thư triozofurin trên các tế bào ung thư biểu mô buồng trứng của người. Có thể dùng liều triazofurin thấp hơn trong liệu pháp liên minh
, do đó làm giảm các chức năng không mong muốn.

Quercetin cũng làm tăng chức năng của thuốc hóa dược trị ung thư carboxytriazol trên tế bào ung thư biểu mô vú người, và làm tăng hoạt tính chống tăng sinh của thuốc hóa dược busulfan. Quercetin ức chế sự tạo thành
cụm tế bào ở tế bào bệnh bạch cầu người, do đó có thể dùng
liệu pháp liên minh
này trong điều trị bệnh bạch cầu cấp tích.

Catechin từ cây chè

Chè xanh chứa epigallocatechin gallat (EGCG), hợp chất này được coi là hoạt chất trong chè xanh có chức năng dự phòng bệnh ung thư. EGCG gây sự chết tế bào theo chương trình và ức chế men cyclooxygenase và do đó ức chế sự tăng sinh của tế bào ung thư.

Sulindac là một thuốc chống viêm không steroid được dùng làm thuốc dự phòng bệnh ung thư, nhưng việc dùng
bị hạn chế do có nhiều chức năng không mong muốn trong đó có chức năng gây xuất huyết đường tiêu hóa. Hoạt tính gây sự chết tế bào theo chương trình của EGCG trên tế bào ung thư phổi tăng lên một cách hiệp đồng khi dùng liên minh
với các thuốc hóa dược dự phòng bệnh ung thư như sulindac và tamoxifen.

Curcumin từ nghệ

Curcumin được chiết xuất từ thân rễ các loài nghệ có chức năng chống viêm, chống u và chống ôxy hóa. Curcumin có các cơ chế
chức năng là phong bế sự mở đầu sinh ung thư hoặc chặn đứng sự thể hiện ác tính của các tế bào mở đầu, chặn đứng nhiều nhân tố
phiên mã. Curcumin có chức năng cộng hợp với thuốc trị ung thư hóa dược doxorubicin, làm tăng chức năng kháng u và chức năng gây sự chết tế bào theo chương trình của cisplatin trên ung thư biểu mô buồng trứng.

 Nghệ chứa nhiều hoạt chất curcumin.
Nhiều chất diệt sinh vật độc hại làm tăng nguy cơ ung thư vú ở thiếu nữ. Curcumin từ nghệ và genistein từ đậu nành có chức năng ức chế một cách hiệp đồng sự tăng sinh tế bào ung thư gây bởi 17 beta-estradiol. Có thể áp dụng các phương pháp
dự phòng bằng các chất bổ sung thực phẩm (curcumin từ nghệ và genistein từ đậu nành) để điều trị các loại ung thư có liên quan đến nội tiết tố và làm giảm kỹ năng gây ung thư của các chất diệt sinh vật độc hại có hoạt tính estrogen.

Genistein từ đậu nành

Genistein là một estrogen thực vật từ đậu nành có kỹ năng là một thuốc hóa trị liệu gây sự chết tế bào theo chương trình do ức chế enzym topoisomerase, ức chế sự tạo mạch hoặc chặn đứng các enzym kích thích tạo ra u như cyclooxygenase. Genistein có chức năng ức chế sự tăng sinh tế bào ung thư biểu mô vú người. Genistein có chức năng chống tăng sinh một cách hiệp đồng với thuốc trị ung thư tamoxifen trên tế bào ung thư vú. Như vậy, có thể dùng
genistein để điều trị dự phòng ung thư vú ở thiếu nữ.

Genistein còn được chứng minh có chức năng phòng ngừa ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới và ung thư dạ dày ở cả nam giới và nữ giới.

GS. Đoàn Thị Nhu

(GS. Đoàn Thị Nhu)

Y học cổ truyền - Bầu dục chữa đau lưng

By With Không có nhận xét nào:
SKĐS - Theo quan niệm của Đông y, lưng là phủ của thận, can chủ gân, thận chủ cốt, can thận hư yếu thì lưng gối và các khớp sẽ đau mỏi.

Theo quan niệm của Đông y, lưng là phủ của thận, can chủ gân, thận chủ cốt, can thận hư yếu thì lưng gối và các khớp sẽ đau mỏi. Bên cạnh việc dùng thuốc có bổ thận dưỡng can, khu phong trừ thấp, làm mạnh gân xương, người xưa còn chọn dùng quả thận (bầu dục) của một số động vật làm món ăn vị thuốc chữa bệnh “dĩ tạng bổ tạng” (lấy tạng bổ tạng). Trong đó, thận của lợn và dê thường được dùng hơn cả. Thận lợn vị ngọt, tính bình, có công dụng bổ thận, ích khí, làm khỏe lưng gối, được dùng để phòng chống các chứng bệnh nhức đầu, hoa mắt chóng mặt, di tinh, di niệu, hay đi tiểu đêm... Bạn đọc có thể dùng một trong số những phương thuốc
sau để hỗ trợ điều trị chứng thận hư, đau mỏi lưng gối:

Bài 1: bầu dục 1 đôi, bột đỗ trọng 30g, lá sen, hạt tiêu, gia vị hoàn toản. Bầu dục làm tinh khiết
, tẩm ướp bột đỗ trọng, hạt tiêu, gia vị, dùng lá sen gói lại, hấp hoặc nướng chín. Công dụng trị thận hư, đau mỏi lưng.

Bài 2: bầu dục 1 đôi, phá cổ chỉ 15g, gừng, hành hoa, 1 chút  rượu (5ml), gia vị hoàn toản. Bầu dục thái miếng để phá cổ chỉ lên trên, cho rượu, gừng, hành, gia vị, 300ml nước. Hấp cách thủy chín, ăn nóng. Công dụng bổ thận, tráng dương.

Lưng là phủ của thận, thận chủ cốt, thận hư yếu thì lưng đau gối mỏi.

Bài 3: bầu dục 1 đôi, ngưu tất 15g, thỏ ty tử 24g, xa tiền tử 15g, lộc giác 12g. Các vị thuốc cho vào túi vải sắc lấy nước, cho bầu dục vào đun chín, thêm gia vị. Ăn bầu dục, uống nước. Công dụng bổ thận dương, dùng ở trường hợp viêm tiền liệt tuyến, tuổi già ù tai, chóng mặt, lưng đau, gối mỏi.

Bài 4: bầu dục 1 đôi, sơn thù du 10g, hồ đào nhục 15g, hầm mềm, thêm gia vị. Công dụng trị bổ thận trị đau lưng, mỏi gối, di tinh.

Bài 5: bầu dục 1 đôi, bổ cốt chỉ 20g. Hầm chín, thêm gia vị, ăn nóng. Công dụng trị thận hư, đau lưng, ù tai, di tinh, đại tiện lỏng.

Bài 6: bầu dục 1 đôi, đảng sâm 15g, phòng phong 15g, gạo tẻ 100g, hành, gia vị hoàn toản. Đảng sâm, phòng phong sắc lấy nước, bỏ bã, cho gạo vào nấu cháo. Bầu dục thái miếng ướp gia vị cho vào cháo đun chín, thêm hành hoa, ăn nóng. Công dụng: là món ăn bổ dưỡng cho người cao tuổi ù tai, sức khỏe yếu.

Bài 7: bầu dục 1 đôi, trần bì tán mịn 3g, xuyên tiêu 30g tán vụn. Bầu dục bóc thái miếng trộn trần bì, xuyên tiêu; nấu canh ăn khi đói. Công dụng: chữa chứng nghe kém, ù tai, điếc tai.

Bài 8: bầu dục 1 đôi, tang ký sinh 50g. Tang ký sinh sắc lấy nước, bỏ bã; cho bầu dục vào đun chín, thêm gia vị. Công dụng trị thận hư, đau mỏi cột sống thắt lưng.

Bài 9: bầu dục 1 đôi, khiếm thực 30g, đảng sâm 20g. Khiếm thực, đảng sâm sắc kỹ lấy nước, cho bầu dục vào đun chín, thêm gia vị. Ăn bầu dục, uống nước. Công dụng: bổ khí, ích thận, lợi tiểu, tiêu phù, phục hồi sức khỏe sau khi điều trị viêm thận mạn tính.

BS. Phan Thị Thu Hiền

Y học cổ truyền - Cá mực dưỡng huyết bổ can thận

By With Không có nhận xét nào:
Cá mực là món ăn thuốc rất tốt, chữa được nhiều bệnh của đàn bà như các chứng bệnh xích bạch, lậu hạ, kinh tụ, huyết bế, ẩm thực thũng thống, hàn nhiệt chưng hà...

 Mực tươi.
Cá mực là món ăn thuốc rất tốt, chữa được nhiều bệnh của đàn bà như các chứng bệnh xích bạch, lậu hạ, kinh tụ, huyết bế, ẩm thực thũng thống, hàn nhiệt chưng hà...

Theo Đông y, cá mực vị mặn, tính bình, bổ âm dưỡng huyết, thông kinh, khứ ứ, bổ can thận, chữa di tinh, xuất tinh sớm, đàn bà kinh nguyệt không đều, ít sữa. Bên cạnh đó, cá mực còn có công hiệu giải độc gan phòng tiểu đường, chống mệt mỏi, chống suy lão.

Trong cá mực có nhiều protid, lipid, các axit amin, các vitamin A, B1, B2, B12, D, E và các chất vi lượng như đồng, kẽm...

Cá mực được dùng làm thuốc trong những trường hợp sau:

Dưỡng âm bổ huyết: Dùng cho người tỳ vị hư nhược, thiếu máu, giảm sức miễn dịch, đàn bà huyết hư, bế kinh, khí hư băng huyết. Cá mực 300g, ớt xanh 100g, gừng, hành, tỏi, rượu vang, dấm, đường, xì dầu lượng vừa dùng (cá mực thái sợi) làm món xào.

Bổ huyết tăng sữa: Nấu canh mực khô với giò heo hoặc thịt heo cho sản phụ ăn cái uống nước.

Chống ợ chua: Nấu canh mực ăn cái uống nước.

Chữa mờ mắt, chảy nước mắt sống: Khi dùng canh mực chữa bệnh thì dùng nước canh là chính vì mực hanh khó tiêu có thể ảnh hưởng xấu đến bộ máy tiêu hoá.

Đại bổ tỳ thận chữa suy nhược thần kinh và thể lực: Mực 3 con (khoảng 600g), hạt sen 10g, khoai mài 300g, bạch quả nhân 10g, tôm to 100g, tương cà chua 30g, hành tây 2 củ (50g), bơ 15g. Tôm nõn hoặc tôm khô ngâm mềm, thái mỏng. Mực bỏ râu, phủ tạng. Khoai mài thái lát mỏng. Hạt sen tươi nếu khô ngâm mềm bỏ tâm sen. Tất cả trộn đều với ít muối rồi cho vào bụng mực, khâu lại, phết bơ mỏng ra ngoài, nướng chín, cắt khoanh dây 3cm xếp vào đĩa.

Kinh nguyệt lượng ít kéo dài: Mực 500g, gừng nướng 6g thái lát cho vào nồi nước nấu chín, thêm gia vị. Ngày ăn 1 lần, ăn liền trong 3 - 5 ngày.

Kinh nguyệt nhiều do khí hư: Cá mực 300g, hoa tề thái tươi 30g, hành tiêu dầu muối (cọng hành trắng giã nhuyễn), ướp mực với hành muối tiêu. Cho nước nấu canh.

Hoạt huyết hoá ứ, lý khí, giảm đau: Tài liệu nói thích hợp tiểu đường kèm viêm tiền liệt tuyến. Mực 1 con, đào nhân 6g. Nấu canh để ăn.

Tư âm, bổ hư: Phụ nữ sinh con huyết hư máu kinh nhiều, mất máu nhiều nên ăn mực thì cực tốt (theo sách). Cá mực khô 1 con, đương quy 25g. Cho nước ninh nhừ. Chữa kinh ít, bế kinh.

Kinh ra trước kỳ, băng lậu: Cá mực khô 1 con, sinh địa hoàng 30g. Cho nước vào ninh nhừ để ăn.

Thông sữa: Cá mực khô 1 con, chân giò lợn 1 cái. Ninh nhừ để ăn. Ăn liền 3 ngày.

Bổ thận tráng dương: 3 con cá mực tươi làm tinh khiết
(bỏ mai, bỏ ruột...). Hạt sen 30g (ngâm mỡ bỏ tâm) giã nát, hoài sơn 300g, nấu chín, giã nhuyễn, tôm nõn 100g, chân giò hun khói 200g thái nhỏ. Tất cả (trừ mực) trộn đều với muối gia vị (vừa ăn) rồi nhồi vào khoang mực buộc lại. Xào 200g hành thái lát cho thơm, nêm gia vị chờ dùng.

Mực đã nhồi được rán, một lúc cho rượu xì dầu và lượng nước vừa phải. Cuối cùng cho hành đã xào và gia vị đảo đều là được, chia ra mấy lần ăn trong ngày.

Bổ khí huyết: Mực tươi 600g, tỏi băm 100g, tiêu đen giã dập nát 1 thìa con, nước tương nhạt 1 thìa con, đường 1 thìa con. Rau mùi xào vàng tỏi rồi cho mực vào. Sau đó cho gia vị đun cho mực trắng ra. Rắc mùi, ăn nóng.

Chú ý:

- Nên ăn mực tươi không qua ướp đá.

- Do mực chứa nhiều cholesterol nên người có mỡ máu cao phải hạn chế.

- Khi chế biến thức ăn nên nướng, xào, không nên rán.

BS. Phó Thuần Hương

Y học cổ truyền - Có nên sắc đỗ đen và cỏ mực để uống?

By With Không có nhận xét nào:
Hiện nay trên mạng đăng tải phương thuốc
chữa trị suy thận là dùng 30g cỏ mực + 40g đậu đen (rang vàng) đun sôi uống.

Hiện nay trên mạng đăng tải phương thuốc
chữa trị suy thận là dùng 30g cỏ mực + 40g đậu đen (rang vàng) đun sôi uống. Xin hỏi 2 loại thuốc Nam này sắc cùng có kỵ nhau không?

Khuong Vu (bobominibl@gmail.com) 

Theo sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của cố giáo sư Đỗ Tất Lợi:

Cỏ mực còn có tên là cây cỏ nhọ nồi, hạ liên thảo, thuộc nhóm các cây thuốc và vị thuốc cầm máu. Theo tài liệu cổ, cỏ mực vị ngọt, chua, tính lương vào 2 kinh can và thận, tác dụng bổ thận âm, chỉ đạo
ết lỵ. Dùng chữa can thận âm kém, lỵ, đại tiện ra máu, làm đen râu tóc. Nhân dân dùng cây cỏ mực giã vắt nước uống để cầm máu trong rong kinh, trĩ ra máu, bị thương chảy máu. Còn dùng chữa ho, hen, viêm họng...

Hạt đậu đen: Cũng theo sách này thì đậu đen thuộc các cây thuốc và vị thuốc thông tiểu tiện và thông mật. Theo Đông y, những vị thuốc chế với đậu đen có tác dụng bổ thận thủy. Liều dùng 20 - 40g có thể hơn. Đậu đen được nhân dân trồng nhiều dùng làm thực phẩm nấu xôi, nấu chè. Đậu đen có 2 loại (loại lòng trắng và loại xanh lòng), loại xanh lòng còn gọi đậu đen nếp ăn ngon và dùng làm thuốc cũng tốt hơn. Đậu đen được dùng trong Đông y để chế thuốc như nấu với hà thủ ô, khiến cho
vị thuốc có màu đen.

Như vậy, 2 loại thảo dược này đều bổ thận và không hề kỵ nhau nên bạn có thể  yên tâm dùng
. Tuy nhiên, đặc tính chung của thuốc Nam là phát huy tác dụng chậm. Bởi vậy, người bệnh cần kiên cường
uống thuốc đều đặn. Bên cạnh đó, đậu đen và cỏ mực còn phối hợp với các vị thuốc khác trong điều trị các bệnh như:

Trị tóc bạc sớm: đậu đen (sao thơm) 30g, cỏ mực 20g, thiên môn, thục địa đều 20g, hà thủ ô, đương qui, táo nhân sao đen, tang diệp đều 16g, đỗ trọng, cam thảo đều 10g, táo tàu 6 quả. Sắc uống ngày một thang. Tác dụng bổ thận, đen râu tóc, nhuận da nên những  người da khô, tóc bạc sớm nên dùng.

Trị đại tiện ra máu: đậu đen (sao thơm) 30g, cỏ mực 20g, trắc bá diệp, thục địa đều 16g, chi tử 10g, hoa hòe (sao) 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Người đại tiện ra máu dùng tốt.

BS. Đỗ Minh Hiền

Sự thật về nấm ngọc cẩuSự thật về nấm ngọc cẩu Bòng bong chữa bệnh đường tiết niệuBòng bong chữa bệnh đường tiết niệu Y học phục hồi & vật lý trị liệuY học phục hồi & vật lý trị liệu

 

Y học cổ truyền - Món ăn chữa chứng ra mồ hôi trộm ở trẻ

By With Không có nhận xét nào:
Mồ hôi trộm là hiện tượng ra mồ hôi không liên quan đến nhiệt độ môi trường mà thời tiết nóng hay lạnh vẫn ra mồ hôi và chỉ khi ngủ mới bị.

Mồ hôi trộm là hiện tượng ra mồ hôi không liên quan đến nhiệt độ môi trường mà thời tiết nóng hay lạnh vẫn ra mồ hôi và chỉ khi ngủ mới bị. Mồ hôi trộm hình thành ở mọi lứa tuổi, không phân biệt giới tính nhưng tỷ trọng
mắc nhiều ở trẻ em.

Theo y học cổ truyền, mồ hôi trộm là do chân âm hư yếu, cơ thể không giữ được tân dịch, nhiệt thịnh gây ra nóng trong. Chúng tôi xin giới thiệu một số món ăn, nước uống để các bậc phụ huynh tham khảo và áp dụng chữa cho con em mình.

Cháo gốc hẹ: Gốc hẹ 30g, gạo 50g, thịt lợn nạc 50g, gia vị hoàn toản. Gốc hẹ chọn phần thân sát củ, rửa tinh khiết
giã nhỏ lọc lấy 200ml nước đặc. Thịt lợn nạc băm nhỏ ướp bột gia vị xào chín. Gạo xay thành bột, cho vào nước gốc hẹ quấy đều, đun trên lửa nhỏ, khi cháo chín cho thịt lợn, bột ngọt vào đảo đều, cháo sôi lên là được. Cho trẻ ăn ngày 1 lần, cần ăn liền 2 – 3 ngày, nếu trẻ nhỏ chưa ăn được thì lọc lấy nước cho uống.

Cháo chạch: Cá chạch đồng 100g, gạo 50g, dầu thực vật, bột ngọt, gia vị hoàn toản.

Cá chạch làm tinh khiết
, bỏ đầu, nội tạng, đuôi, đem hấp cách thủy cho chín, gỡ lấy thịt, ướp bột gia vị, xào bằng dầu thực vật. Xương chạch giã nhỏ lọc lấy 200ml nước ngọt. Gạo xay thành bột cho vào nước lọc, xương chạch quấy đều đun trên lửa nhỏ. Khi cháo chín cho thịt chạch và gia vị vào đảo đều. Cháo sôi lại là được. Ăn 1 lần trong ngày lúc đói, cần ăn liền 3 ngày.

Cháo cá quả: Cá quả 1 con (200g), gạo 50g, ngũ vị 2g, gia vị hoàn toản.

Cá quả làm tinh khiết
, bỏ nội tạng, đem hấp cách thủy, gỡ lấy thịt nạc, ướp bột gia vị. Xương cá giã nhỏ lọc lấy 200ml nước ngọt. Gạo,  ngũ vị xay thành bột mịn, cho vào nước lọc xương cá quấy đều đun trên lửa nhỏ, khi cháo chín, cho gia vị, thịt cá vào quấy đều, cháo sôi lại là được. Ăn ngày 1 lần lúc đói, cần ăn liền 3 – 5 ngày.

Cháo trai: Trai đồng 5 con loại vừa, lá dâu non 30g, gạo nếp 50g, gạo tẻ 50g, dầu thực vật, bột gia vị hoàn toản.

 Cháo trai.

Pha nước muối loãng ngâm trai, sau 1 giờ vớt ra rửa tinh khiết
, cho vào nồi luộc, nhặt lấy ruột trai và lọc lấy nước trong. Ruột trai bỏ hết phần đất, thái nhỏ ướp gia vị, dùng dầu thực vật xào cho thơm. Lá dâu non rửa tinh khiết
thái nhỏ, gạo tẻ, gạo nếp xay thành bột mịn, cho thêm nước vào nước luộc trai, cho bột gạo vào quấy đều, đun nhỏ lửa, khi cháo chín cho trai, lá dâu, nêm vừa gia vị, cháo sôi lại là được. Ngày ăn 2 lần lúc đói, cần ăn liền trong 4 - 5 ngày

Cháo sò, hến: Sò biển 100g, hến 100g, gạo 50g, rễ cây hẹ 3g, gia vị hoàn toản. Sò, hến đem rửa tinh khiết
, hấp cách thủy rồi bỏ vỏ, ruột thái nhỏ, uớp bột gia vị. Rễ cây hẹ rửa tinh khiết
giã nhỏ lọc lấy 200ml nước. Gạo xay nhỏ mịn cho vào nước rễ cây hẹ quấy đều, đun nhỏ lửa. Khi cháo chín cho sò biển và hến vào đảo đều, cháo sôi lại là được. Ăn ngày 1 lần lúc đói. Cần ăn liền 3 – 5 ngày.

Canh lá dâu: Lá dâu non 50g, thịt lợn nạc 100g, bột ngọt, gia vị hoàn toản. Lá dâu non rửa tinh khiết
thái nhỏ, thịt lợn nạc băm nhỏ ướp bột gia vị, xào chín, thêm 200ml nước đun sôi, cho lá dâu đảo đều, canh sôi lại cho bột ngọt là được. Ăn ngày 1 lần với cơm, ăn liền 5 ngày.

 Lá dâu.

Nước đậu đen: Đậu đen 50g, long nhãn 15g, táo tàu 5 quả. Đậu đen đem rang chín, cho vào nồi cùng long nhãn, táo tàu, thêm 300ml nước đun nhỏ lửa, khi còn 200ml chắt lấy nước, chia làm 4 lần uống trong ngày. Cần uống liền 3 ngày.

Nước mộc nhĩ: Mộc nhĩ 20g, táo tàu 5 quả. Mộc nhĩ rửa tinh khiết
cùng táo tàu cho vào nồi thêm 300ml nước đun sôi kỹ chắt lấy 150ml, chia 3 lần uống trong ngày. Cần uống liền 5 ngày.

BS. Nguyễn Văn Trường

23/12/16

Y học cổ truyền - Hoài sơn - Vị thuốc điều hòa âm dương

By With Không có nhận xét nào:
Khoai mài không dễ dàng
chỉ là món ăn dân gian
không lạ lẫm

với đồng bào miền núi, còn là vị thuốc quý của y học dân gian được dùng
rất lâu đời với tên thuốc hoài sơn. Tên khoa học là Dioscorea.

 Củ khoai mài.
Khoai mài không dễ dàng
chỉ là món ăn dân gian
thân thuộc với đồng bào miền núi, còn là vị thuốc quý của y học dân gian được dùng
rất lâu đời với tên thuốc hoài sơn. Tên khoa học là Dioscorea.

Dưới đây là một số phương thuốc
đông y tiêu biểu thường dùng hoài sơn làm chủ dược:

Bài Lục vị hoàn gồm có vị thục địa 32g, hoài sơn 16g, đơn bì 12g, sơn thù 16g, phục linh 12g, trạch tả 12g bằng cách sắc uống hoặc làm hoàn uống. Chữa thận âm hư, biểu lộ chứng nóng trong, người gầy, đổ mồ hôi trộm, lưng gối yếu mỏi... Đây là phương thuốc
được các thầy thuốc đông y hay dùng
chữa trị nhiều chứng bệnh do âm huyết hư suy, nhất là  trẻ em gầy gò biếng ăn chậm lớn. Hải Thượng Lãn Ông có viết: "Người thầy thuốc mà không biết dùng
bài Lục vị, và bài Bát vị làm hai phương điều hoà âm dương, thì việc làm thuốc thiếu mất quá nửa".

Bài Sâm linh bạch truật tán gồm: đảng sâm 12g, hoài sơn 14g, bạch truật12g, phục linh 12g, bạch biển đậu12g, hạt sen 12g, ý dĩ 12g, cát cánh 8g, trần bì 8, sa nhân 6g, cam thảo12g,  đại táo 3 quả  tất cả các vị sắc uống hoặc tán bột, ngày uống 3 lần. Chủ trị tỳ vị hư nhược, ăn uống không tiêu, nôn, tiêu chảy, hình thể hư luỵ, chân tay vô lực.

Bài Sơn dược thang gồm: hoài sơn 20g, cát căn 20g, bạch truật 20g, hoàng kỳ 20g, phòng đảng sâm 20, cam thảo 8g. Hoặc bài Lục vị gia mạch môn, hoàng kỳ, thiên hoa phấn mỗi vị 14g sắc uống ngày một thang. Đây là hai phương thuốc
  thường dùng chữa tiêu khát "tiểu đương".

Bài Sơn dược hoàn gồm: thục địa 32g, hoài sơn 16, phục linh 12g, sơn thù 12g, xa tiền tử 12g, đơn bì 12g, phụ tử 4g, nhục quế, thổ ty tử 12g, nhục ththong thả, ngũ vị tử 12g, thạch hộc 12g, long cốt 10g, cửu thái tử 12g, có thể sắc uống ngày một thang hoặc làm hoàn ngày uống mỗi lần 15g ngày uống 3 lần. Chữa thận suy  hạ nguyên không vững, tiểu đục, đau lưng, yếu chân.

Hoài sơn có tính bổ, thu liêm người có thực tà, thấp nhiệt không dùng nhiều.

Lương y: Minh Phúc

Y học cổ truyền - Ðông y hỗ trợ trị suy tim

By With Không có nhận xét nào:
Theo y học cổ truyền: suy tim thuộc phạm trù tâm quý, chính xung, khái suyễn, hư lao, thủy thũng…
Theo y học cổ truyền: suy tim thuộc phạm trù tâm quý, chính xung, khái suyễn, hư lao, thủy thũng… Nguyên nhân suy tim cốt yếu là tâm và huyết mạch bất túc, nguyên nhân ngoại tà, ăn uống phòng dục không điều độ là nhân tố
dẫn phát bệnh.

Đông y chia suy tim ra các thể sau:

Thể khí huyết đều hư: tim hồi hộp, không thở được
, mệt mỏi, đầu váng, mắt hoa, hụt hơi, ngại nói, môi nhợt, sắc mặt tối, chất lưỡi nhợt bệu, rêu mỏng, mạch tế vô lực.

Phép điều trị: Bổ khí huyết, dưỡng tâm an thần.

Bài thuốc: Quy tỳ thang gia giảm: đẳng sâm 15g, hoàng kỳ 20g, chích cam thảo 5g, phục thần 12g, toan táo nhân 12g, mộc hương 6g, viễn chí 10g, bạch truật 15g, đương quy 20g, long nhãn 15g.

Thể tâm thận hư: không thở được
, hồi hộp, khó ngủ, miệng khát, họng khô, hai gò má đỏ, tai ù, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.

Phép điều trị: Bổ tâm thận âm, dưỡng tâm an thần.

Bài thuốc: Thêm vương bổ tâm đan gia giảm: sinh địa 12g, huyền sâm 12g, đan sâm 15g, thiên đông 12g, mạch đông 12g, đương quy 12g, bá tử nhân 12g, toan táo nhân 12g, ngọc trúc 12g, cát cánh 12g, ngũ vị tử 5g.

 Ngũ vị tử.

Thể tâm huyết ứ:

người mệt mỏi, vô lực, hồi hộp nhịp loạn, suyễn thở, không thở được
khi nằm, mặt tối, môi tím, đầu ngón tay xanh tím. Lưỡi ánh tím có ban huyết ứ. Mạch tế hoặc kết đại.

Phép điều trị: Hoạt huyết hoá ứ.

Bài thuốc: Đào nhân hồng hoa tiễn gia giảm: đương quy 15g, đan sâm 15g, uất kim 10g, hồng hoa 6g, đào nhân 15g, long cốt 15g, mẫu lệ 15g, diên hồ sách 12g, quế chi 10g, xuyên khung 10g, cam thảo 5g.

Thể tỳ thận hư: tim đập nkhô giòn, phù thũng toàn thân, người gầy, ăn kém, đại tiện nhão, rêu lưỡi trắng, mạch trầm tế vô lực.

Phép điều trị: Ôn tỳ bổ thận, thông dương lợi tiểu.

Bài thuốc: Chân vũ thang gia giảm: phụ tử chế 6g, tang bạch bì 12g, bạch truật 15g, phục linh 20g, quế chi 10g, sinh khương 5 lát, trạch tả 15g, bạch thược 15g, xa tiền tử 15g.

Các phương thuốc
trên sắc uống ngày 1 thang. Cho 750ml nước, đun sôi, đun nhỏ lửa sắc kỹ trong 1 giờ, chắt lấy 250ml, chia uống 3 lần trong ngày sau bữa ăn 30 phút.

Lương y Hoài Vũ

21/12/16

Y học cổ truyền - Cây hoa hiên

By With Không có nhận xét nào:
Hoa hiên còn được gọi là hoàng hoa, kim trâm thái, huyền thảo, lê-lô, lộc thông, người tày gọi là phắc chăm.

 Cây hoa hiên.
Hoa hiên còn được gọi là hoàng hoa, kim trâm thái, huyền thảo, lê-lô, lộc thông, người tày gọi là phắc chăm. Là loại cây thảo có thân rễ ngắn. Rễ củ hình trụ dài xếp thành chùm. Lá hình dải hẹp, dài 40-50cm, rộng 2-4cm, xếp thành 2 dãy trong một mặt phẳng, gốc có bẹ to mọc ốp vào nhau, đầu thuôn nhọn, thường gập xuống, gân song song, hai mặt nhẵn cùng màu. Cụm hoa phân nhánh, mọc trên một cán dài bằng lá; hoa to màu vàng cam đến vàng đỏ, bao hoa hình phễu. Cây hoa hiên được trồng làm cảnh ở một vùng có khí hậu quanh năm ẩm mát như Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Sa Pa (Lào Cai) và Đà Lạt (Lâm Đồng). Dân gian hay dùng lá và hoa hiên nấu canh ăn, dung rễ và nụ hồng làm thuốc. Hoa hiên vị ngọt, tính mát, giúp thanh khô nhiệt, tiêu đờm, cầm máu, thông sữa, an thai, lợi tiểu, sáng mắt. Một số nơi dùng lá và hoa hiên làm thuốc chữa chảy máu cam. Lá hái quanh năm, rễ đào vào thu đông, có khi vào mùa khác, dùng tươi hay phơi khô.

Một số phương thuốc
thường dùng :

- Hoa: Từ lâu hoa hiên hầm với thịt gà là món ănkhác thường
trong mâm cỗ ngày giỗ, tết. Canh hoa hiên có tính năng
bổ dưỡng, giải nhiệt, cầm máu, mạch dạ dày, lợi tiểu. Theo Thập tam phương gia giảm của Tuệ Tĩnh, đàn bà có thai hàng ngày ăn đều đặn canh hoa hiên và uống nước sắc rễ cây gai 30g để chữa động thai. Để cầm máu trong trường hợp chảy máu cam, lấy hoa hiên rửa sạch sẽ, giã nát, thêm nước, gạn uống, dùng bã nút vào lỗ mũi.

- Rễ: cây hoa hiên 15g để tươi, rửa sạch sẽ, giã nhỏ, thêm nước, chắt lấy nước đặc (khoảng một bát), hòa một ít mật ong để uống chữa chứng chảy máu cam do nhiệt,  dùng và rễ hoa hiên giã đắp chữa mụn nhọt.

- Lá: Lá cây hoa hiên dùng tươi cũng có tính năng
cầm máu: Cách chế biến và cách dùng như hoa.

- Chữa kinh nguyệt không đều: hoa hiên 15g, ích mẫu thảo 12g, ngảI cứu 12g, rễ củ gai 20g. sắc uống ngày một thang chia làm 2 lần uống trong ngày, uống liền 7 ngày.

- Chữa đái buốt đái rắt: Rễ hoa hiên 15g, mã đề 12g, râu ngô 12g, sắc uống ngày một thang, chia làm 2 lần uống trong ngày uống liền 5-10 ngày.

- Chữa bốc hỏa ở đàn bà mãn kinh: Hoa hiên 10g, lá dâu 20g. Nấu canh ăn hàng ngày.

- Chữa mất ngủ: Hoa hiên 12g, lá dâu tằm 20g, lá vông nem 10g. Nấu canh ăn hàng ngày. Hoặc đem hoa hiên phơi khô trong râm, sao qua lửa, hằng ngày hãm uống thay chè.

- Tắc tia sữa: hoa hiên 12g, bồ công anh 40g. Sắc uống ngày một thang, chia làm 3 lần uống trong ngày, dùng liền 7 thang.

Chú ý: Không dùng  hoa hiên để ăn sống vì sẽ bị ngộ độc. 

Bác sĩ Trần An

Y học cổ truyền - Hạ mỡ máu bằng táo mèo

By With Không có nhận xét nào:
Trong Đông y, táo mèo có chức năng giúp tiêu hóa thức ăn, tăng mạnh miễn dịch, giảm cholesterol, giúp hạ mỡ máu, rối loạn lipid máu, đại tiện xuất huyết...

Quả táo mèo còn có tên gọi là quả chua chát. Táo mèo mọc hoang và được trồng tại các tỉnh Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai... Quả táo mèo thu hoạch vào mùa thu. Vì vậy, vào các tháng 8, 9, 10, tại chợ của các tỉnh vùng cao Tây Bắc thường bày bán táo mèo tươi. Quả táo mèo hình trứng, khi chín màu vàng lục ăn có vị chua, hơi chát. Làm thuốc có thể dùng tươi hoặc phơi khô. Trong Đông y, táo mèo có tác dụng giúp tiêu hóa thức ăn, tăng nhanh
miễn dịch, giảm cholesterol, giúp hạ mỡ máu, rối loạn lipid máu, đại tiện xuất huyết...

Một số phương thuốc
chữa bệnh có dùng
quả táo mèo:

Kích thích tiêu hóa: 200g táo mèo, rửa tinh khiết
, bỏ hạt ngâm với 300ml rượu trắng (để ý ngày lắc bình 1 lần). Sau một tuần đem ra uống. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10-15 ml. Sau khi uống hết rượu, trái táo mèo còn lại trộn với đường kính ăn dần.

 Táo mèo

Chữa rối loạn lipid máu: Táo mèo 50g, gạo tẻ 50g, đường phèn toàn vẹn. Táo mèo bỏ hạt, thái phiến, đem nấu với gạo tẻ thành cháo, chế thêm đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày.

Giúp hạ mỡ máu: Táo mèo và lá sen, mỗi vị 15g đem sắc lấy nước uống thay trà trong ngày. Uống liên tiếp
trong 15 ngày. Nghỉ vài ngày lại sắc uống, mỗi liệu trình điều trị là 15 ngày.

Trị chứng đầy bụng: 30g táo mèo phơi khô sắc nước uống thay trà hàng ngày. Dùng trong 3 ngày.

Đặc biệt, quả táo mèo có tính năng
rất tốt trong trị bệnh tăng huyết áp và phòng chống tích cực các biến chứng do tăng huyết áp gây ra.

Bài 1: Táo mèo sao đen 12g, thảo quyết minh 12g, hoa cúc trắng 9g. Ba thứ sấy khô, tán nhỏ, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Bài thuốc này có tác dụng sơ phong, tán nhiệt, bình can, giáng áp, nhuận tràng thông tiện thích hợp cho những người bị tăng huyết áp có kèm theo đại tiện khó
kéo dài. Uống trong 10 ngày.

Bài 2: Táo mèo 12g, hoàng kỳ 45g, cát căn 20g, tang ký sinh 20g, đan sâm 30g. Tất cả đem sắc 2 lần, mỗi lần 30 phút, sau đó cô lại còn khoảng 300-400ml, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Bổ khí hoạt huyết, ích tâm kiện não, thích hợp
cho người bị tăng huyết áp có kèm theo rối loạn tuần hoàn não (mệt mỏi, không thở được
, ngại hoạt động, kém ăn, dễ vã mồ hôi...). Mỗi liệu trình uống trong 15 ngày, nghỉ 20 ngày lại tiếp tục uống.

Bài 3: Sinh địa 200g, táo mèo 500g, đường trắng 100g. Sinh địa rửa tinh khiết
, thái lát; táo mèo bỏ hạt, thái phiến. Hai thứ đem sắc trước cho thật nhừ, cho thêm đường rồi tấn công
nhuyễn thành dạng cao lỏng, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 thìa canh. Công dụng: Dưỡng âm lương huyết, dùng cho người tăng huyết áp thuộc thể âm hư, thể hiện bằng các triệu chứng người gầy, lòng bàn tay, bàn chân nóng, hay có cảm giác sốt nhẹ về chiều, miệng khô họng khát... Uống liên tiếp
trong 20 ngày.

Bác sĩ Thu Lan

Y học cổ truyền - Ốc nhồi, món ăn vị thuốc tốt

By With 1 nhận xét:
Ốc nhồi được chế trở thành
nhiều món ăn bình dân như bún ốc, ốc xào, canh ốc, ốc luộc hay những món ăn đặc sản: ốc nhồi thịt, ốc hấp lá gừng.

Ốc nhồi được chế trở thành
nhiều món ăn dân gian
như bún ốc, ốc xào, canh ốc, ốc luộc hay những món ăn đặc sản: ốc nhồi thịt, ốc hấp lá gừng. Ốc nhồi còn dùng làm thuốc thông lợi đại tiểu tiện, giải uất nhiệt, tiêu thũng... là vị thuốc có lợi cho cơ thể loài người.

Thành phần dinh dưỡng: Ốc nhồi chứa 11,9% protid; 0,7% lipid, các vitamin (B1 0,01mg%; B2 0,06mg%; PP 1mg%); các muối (Ca 1.357mg%; P 191mg%). Ốc cung ứng
86 calo/100g thịt.

Theo Đông y, thịt ốc có vị ngọt mặn, tính hàn; vào vị, đại tràng, bàng quang. Vỏ ốc có vị ngọt, tính bình, không độc. Tác dụng lợi thủy, tkhô nóng
nhiệt. Dùng cho các trường hợp sốt nóng, đái khó, phù nề, vàng da, bệnh tiểu đường, trĩ. Vỏ ốc có tính năng
giải tâm phiền lành. Cách dùng: nấu, hầm, nướng, xào (không dùng cho trường hợp tỳ vị hư hàn).

Một số thực đơn chữa bệnh có ốc:

Canh ốc nhồi củ chuối tiêu: Ốc nhồi 500 - 1.000g, ngâm sạch sẽ, đập bỏ vỏ; củ chuối ép lấy nước đem nấu ốc, khi chín nhừ, thêm đường trắng và gia vị cho vừa ăn.

+ Ốc nhồi 500 - 1.000g, củ chuối hay quả chuối xanh 500g. Ốc nhồi ngâm sạch sẽ, đập bỏ vỏ, thái miếng. Củ chuối hay quả chuối xanh gọt bỏ vỏ ngoài, ngâm nước, sau đó rửa sạch sẽ, thêm gia vị nấu với ốc thành một món đặc sản.

Hai thực đơn trên dùng lợi niệu chống phù nề. Nhiều lương y cho rằng hai thực đơn trên dùng tốt cho người đái tháo đường.

Ốc xào nấm hương:  Ốc nhồi 500 - 1.000g, nấm hương 20g, thịt nạc 60g. Ốc nhồi ngâm nước sạch sẽ 1 - 2 ngày, đem đập lấy ốc sống, nấm hương ngâm rửa sạch sẽ để hết nước thái nhỏ, thịt nạc thái, trộn lẫn với ốc và nấm hương, thêm gia vị hành, gừng, bột tiêu, muối, dấm. Để 15 phút, xào to lửa với dầu chiên cho chín, thêm nước dùng khuấy cho sôi đều, cho ăn nóng. Dùng cho các trường hợp sốt nóng vàng da, tiểu ít.

Chữa xơ gan, viêm gan mạn tính: Ốc nhồi 250g, kê cốt thảo 30g. Nấu nhừ, ăn hàng ngày.

Nước canh ốc nhồi tàu hũ: Ốc nhồi 500 - 1.000g, đem đập bỏ vỏ ốc, nấu với tàu hũ (đậu phụ), hành củ (hoặc hành tươi) lấy nước cho uống. Dùng cho các trường hợp say rượu, hôn mê.

Ốc nhồi luộc: Ốc nhồi 500 - 1.000g, ngâm nước sạch sẽ 2 - 3 ngày, đem luộc chín, khêu ốc ăn với nước gừng pha rượu và dấm mắm, đồng thời uống nước luộc ốc. Dùng cho người bệnh
sốt nóng vàng da.

+ Vỏ ốc nhồi 2 cái, cỏ nhọ nồi 50g. Vỏ ốc rửa sạch sẽ, sao với cát, tán bột mịn. Cỏ nhọ nồi sấy khô, tán bột. Trộn đều hai bột với nhau. Xát vào răng lợi nhiều lần trong ngày. Chữa miệng lở, lưỡi giộp, lợi và niêm mạc lở loét.          

BS. Ngọc Trâm

20/12/16

Y học cổ truyền - Bài thuốc hỗ trợ điều trị Alzheimer

By With Không có nhận xét nào:
Alzheimer là bệnh lý hay chạm chán ở người có tuổi, với bộc lộ
lâm sàng căn bản là sự sa sút trí nhớ hoặc mất trí, người bệnh không còn khả năng lý luận suy nghĩ, sự sa sút này tiến triển chậm trong nhiều năm. Khoảng 5 - 10% người trên 70 tuổi và 20% người trên 85 tuổi mắc bệnh này.

Alzheimer là bệnh lý hay chạm mặt
ở người có tuổi, với biểu thị lâm sàng chủ công là sự sa sút trí nhớ hoặc mất trí, người bệnh không còn kĩ năng lý luận suy nghĩ, sự sa sút này tiến triển chậm trong nhiều năm. Khoảng 5 - 10% người trên 70 tuổi và 20% người trên 85 tuổi mắc bệnh này. Bệnh gây tử vong cao, gây di chứng nặng nề về thần kinh và tâm thần như liệt vận động, rối loạn trí nhớ, hoang tưởng bị hại, bị mất cắp, mất kĩ năng tự chăm bẵm, đại tiểu tiện không tự chủ...

Bài thuốc hỗ trợ điều trị Alzheimer 1
 Hồng hoa là vị thuốc hỗ trợ trị Alzheimer.
Đông y cho rằng nguyên nhân gây bệnh do di truyền; môi trường ô nhiễm, thuốc trừ sâu; bệnh tự miễn; rối loạn đường dẫn truyền thần kinh liên quan trí nhớ; do tiên thiên bất túc, tuổi già, nội thương thất tình, ăn uống không điều hòa... Sau đây là một số phương thuốc
trị theo từng thể:

Thể can khí uất kèm đờm trệ: người bệnh dễ khó tính
, tâm phiền đức, uất ức, hông sườn đau đầy tức, lưỡi bẩn, rêu lưỡi dày nhớt, mạch hoạt. Phép chữa là sơ can lý khí, hoạt huyết, hóa đờm.

Bài thuốc: hương phụ 12g, sài hồ, tkhô giòn bì mỗi vị 9g, xuyên khung, đan sâm mỗi vị 15g, đào nhân, hồng hoa, xích thược mỗi vị 12g. Sắc uống. Nếu hỏa thịnh thêm chi tử, đan bì mỗi vị 9g. Nếu huyết hư thêm đương quy 9g, thay xích thược bằng bạch thược. Nếu tỳ hư thêm bạch truật, phục linh mỗi vị 9g, cam thảo 6g.

Thể can thận âm hư kèm đờm trệ: bệnh kéo dài, người bệnh chóng mặt, váng đầu, tê rung chân tay, trí nhớ giảm, lờ đờ, mắt không còn thần, da mặt kém tươi, mồ hôi trộm, da khô, khó tính
bất thường, run hoặc co rút cơ, nếu nặng không đi lại được, có thể liệt nửa người, nói khó, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch tế sác. Phép chữa là tư bổ can thận, hoạt huyết, hóa đờm.

Bài thuốc: thục địa, bạch phục linh mỗi vị 15g; sơn thù, bạch thược, trạch tả, đan bì, xích thược, xuyên khung, hồng hoa mỗi vị 12g, thạch xương bồ, viễn chí, đào nhân mỗi vị 9g. Sắc uống. Nếu tỳ hư thêm bán hạ, hoài sơn mỗi vị 9g. Âm hư hỏa vượng thêm tri mẫu, hoàng bá mỗi vị 9g. Váng đầu chóng mặt thêm từ thạch 12g; thiên ma, câu đằng, nữ trinh tử mỗi vị 9g. Họng khô, đại tiện khó
thêm thiên hoa phấn, bá tử nhân, tang thầm mỗi vị 9g. Lưỡi cứng, khó nói thêm trân châu mẫu, bách hợp mỗi vị 12g. Liệt nửa người, tê chân tay thêm kê huyết đằng, đan sâm mỗi vị 15g; đương quy, a giao mỗi vị 9g.

Thể tâm tỳ đều hư: người bệnh nói năng lẫn lộn, rầu rĩ
, trầm tư, nói khó, đi đứng lờ đờ, tinh thần mệt mỏi, tự ra mồ hôi, không có sức, tim hồi hộp, sợ hãi, hơi thở ngắn, biếng ăn, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch tế nhược. Phép chữa là dưỡng tâm, kiện tỳ, an thần ích trí.

Bài thuốc: nhân sâm, mạch môn, toan táo nhân mỗi vị 12g; phục linh, đương quy, sinh địa, thục địa mỗi vị 9g; bá tử nhân, ngũ vị tử mỗi vị 6g; cam thảo 3g. Sắc uống. Nếu huyết ứ thêm đan sâm 9g, hổ phách mạt 3g; đờm nhiều thêm thạch xương bồ, viễn chí, bán hạ, trần bì mỗi vị 9g.

Thể can dương thượng cang: người bệnh nhức đầu, chóng mặt, mặt đỏ, mắt đỏ, bứt rứt, ngủ không ngon, hay mơ, lưỡi cứng, khó nói, tê tay chân, khó cử động miệng và mắt, liệt nửa người, lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng hoặc vàng nhờn, mạch tế sác. Phép chữa là bình can tiềm dương, tỉnh thần khai khiếu.

Bài thuốc: thiên ma, câu đằng, bạch thược, hoàng cầm, tang ký sinh, kỷ tử, đỗ trọng, toan táo nhân, thạch xương bồ, dạ giao đằng, ngưu tất, ích mẫu mỗi vị 12g; thạch quyết minh, phục linh, chi tử mỗi vị 6g. Sắc uống. Nếu đại tiện khó
nước tiểu đỏ thêm đại hoàng, mang tiêu mỗi vị 6g; hông sườn đau thêm huyền hồ 15g, tkhô giòn bì 9g; hồi hộp không yên thêm mẫu lệ, long cốt mỗi vị 12g.

Thể tâm hỏa vượng: người bệnh đau đầu, bứt rứt, mặt, môi đỏ, khó ngủ hay mơ, nói lẫn lộn, thấp thỏm, không phân biệt được người quen, đại tiện khó
, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch sác. Phép chữa là tkhô giòn tâm tả hỏa, an thần.

Bài thuốc: hoàng liên, cam thảo mỗi vị 3g; hoàng cầm, chi tử, đan bì, uất kim mỗi vị 9g; đại hoàng, mộc thông, đạm trúc diệp mỗi vị 6g; từ thạch, huyền sâm mỗi vị 15g; long cốt 12g; sinh địa 30g. Sắc uống. 

Thể đờm trọc che lấp tkhô giòn khiếu: người bệnh nặng đầu, sắc mặt vàng bủng, phù thũng, mệt mỏi, ngủ mê mệt, thở khò khè, nói năng vui buồn lẫn lộn, không phân biệt được người bao quanh
, khạc đờm, bụng đầy trướng, nếu nặng thì mất cảm giác, đại tiểu tiện không tự chủ,... chất lưỡi nhạt, mạch nhờn nhu hoạt. Phép chữa là kiện tỳ hóa đờm, tỉnh não khai khiếu.

Bài thuốc: nhân sâm, toan táo nhân, phục thần mỗi vị 12g; bán hạ, thạch xương bồ mỗi vị 9g; trần bì, thần khúc, cam thảo mỗi vị 6g; phụ tử 3g. Sắc uống. Nếu đờm ngăn trở thêm triết bối mẫu, đởm nam tinh, viễn chí đều 9g; bụng đầy trướng bỏ nhân sâm, phụ tử, thêm toan táo nhân, hoắc hương, bội lan, hậu phác, la bặc tử, chỉ xác, mộc hương mỗi vị 9g.

  Lương y Thái Hòe

19/12/16

Y học cổ truyền - Ăn uống để chống nóng và phòng bệnh mùa hè

By With Không có nhận xét nào:
Mùa hè là mùa dương khí vượng nhất trong năm, thời tiết nóng hổi và ẩm mốc. Quá trình trao đổi chất trong cơ thể loài người diễn ra mạnh khỏe
, dương khí phát ra ngoài, âm khí tiềm phục ở trong.

Mùa hè là mùa dương khí vượng nhất trong năm, thời tiết lạnh mát và ẩm mốc. Quá trình trao đổi chất trong cơ thể nhân loại
diễn ra mạnh bạo, dương khí phát ra ngoài, âm khí tiềm phục ở trong. Các lỗ chân lông giãn rộng, mồ hôi tiết ra nhiều để điều hoà thân nhiệt nhưng cũng vì thế mà tà khí dễ xâm nhập vào trong. Hệ thống mao mạch ngoại vi cũng giãn ra, khí huyết lưu thông nkhô cứng và mạnh hơn. Công năng của tỳ vị có xu hướng suy giảm, quá trình tiêu hoá và hấp thu thức ăn dễ bị rối loạn. Vậy, về mùa hè nên ăn gì để chống nóng và dự phòng bệnh tật?

Thực phẩm nên ăn: Nên chú trọng dùng nhiều đồ ăn thức uống có tác dụng tkhô cứng nhiệt giải thử, lợi niệu trừ thấp: về thực vật như dưa hấu, dưa chuột, dưa gang, dưa bở, dưa lê, cam, quýt, chuối tiêu, trám, mướp đắng, mướp, bầu, bí đao, củ cải, súp lơ, rau đay, mùng tơi, rau dền, củ đậu, mã thầy, ngó sen, cà chua, đậu xanh, đậu đen, bạch biển đậu, xích tiểu đậu, cháo ngũ đậu, cháo ý dĩ, cháo đậu xanh, cháo biển đậu, cháo lá sen, trà nhân trần, trà hoa cúc, trà nụ hoặc lá vối, trà actiso, trà khổ qua...; về động vật như thịt vịt, cua, ốc, hến, trai, sò, ngao, hàu...

 Chè hạt sen giúp nâng cao năng lực hoạt động của tỳ vị.

Nên tránh hoặc hạn chế dùng các thực phẩm có tính nhiệt như: thịt dê, thịt chó, thịt hoẵng, thịt chim sẻ, long nhãn, vải, hẹ, hành tây, hạt tiêu, nhục quế, gừng, đại hồi, lạc rang, rượu trắng...Những ngày quá lạnh mát có thể dùng một chút nước ướp lạnh hoặc nước đá để giúp cơ thể giải nhiệt nhưng không được dùng nhiều để tránh làm thương tổn tỳ vị, tạo điều kiện cho thấp tà gây bệnh bên trong. Khi mồ hôi ra nhiều phải xem xét
bổ sung đủ lượng nước đã mất bằng đường ăn uống bằng cách trọng dụng những đồ ăn thức uống có tính năng
tkhô cứng nhiệt dưỡng âm, sinh tân chỉ khát như thạch đen, chè đậu đen, trà mạch môn, nước ép quả lê, nước ép ngó sen, nước ép mã thầy, nước mơ, nước mận, nước dâu, nước mía, trà bát bảo, trà sắn dây...

Ngoài việc tkhô cứng nhiệt giải thử và dưỡng âm, ăn uống trong mùa hè lạnh mát còn phải hết sức xem xét
tránh làm thương tổn tỳ vị. Vậy nên, các thực phẩm có tính năng
phương hương tỉnh tỳ, kiện tỳ hoá thấp, giải thử, trực tiếp hoặc gián tiếp bảo vệ
và nâng cao năng lực hoạt động của tỳ vị cũng nên được trọng dụng. Ví như các loại cháo chế từ đậu xanh, đậu côve, bạch biển đậu, ý dĩ, hạt sen, củ mài...; các loại trà hoắc hương, trà nụ vối, trà hương nhu, trà lá sen, trà actiso, trà nhân trần... Nên xem xét
dùng thêm các đồ ăn thức uống có vị chua ngọt, cay thơm để nhằm mục đích khai vị, kích thích cảm giác thèm ăn như các loại canh chua chế từ quả sấu, me, khế, quả dọc, tai chua, quả thân phụ
y, chua me đất hoa vàng... và các loại nước cam, nước ckhô cứng, nước mơ, nước sấu... Tuy nhiên, cần xem xét
không nên dùng quá nhiều đường tinh luyện khi pha chế các loại nước giải khát.

 Dưa hấu tkhô cứng nhiệt giải thử.

Phải biết thuận ứng thiên thời để bồi bổ dương khí: trong ăn uống mùa hè, Đông y còn có một quan điểm hết sức lạ mắt, đó là “xuân hạ dưỡng dương”. Mùa hè nóng nực tuy phải dùng nhiều đồ ăn thức uống có tác dụng tkhô cứng nhiệt giải thử nhưng vẫn cần lấy ôn ấm làm chính để hỗ trợ
khí dương. Bởi vì, các nhà dưỡng sinh Đông y cho rằng, mùa hè tuy dương khí vượng thịnh bên ngoài nhưng khí âm lại tiềm ẩn bên trong cơ thể, vậy nên “trời tuy nóng chớ tham mát, dưa tuy ngon chớ ăn nhiều”. Nếu không biết bảo vệ
dương khí trong mùa hè thì mùa đông sẽ mắc nhiều bệnh tật, phải biết thuận ứng thiên thời để bồi bổ dương khí, trừ khử âm hàn, có như vậy mới gọi là phòng bệnh triệt để. Bởi vậy, trong mùa hè, việc chọn dùng một số đồ ăn thức uống có tính ôn bổ cũng là rất cần thiết, khác biệt đối với những người có bệnh mạn tính và thể chất vốn suy nhược do dương khí kém. Ví như, các loại nấm (nấm rơm, nấm mỡ, nấm hương, nấm kim châm...), hoài sơn, hạt sen, tổ yến, phấn hoa, sữa ong chúa, trà linh chi, đông trùng hạ thảo hầm thịt vịt, ba ba hầm chuối đậu...

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Y học cổ truyền - 5 phương thuốc giảm bệnh trầm cảm

By With Không có nhận xét nào:
SKĐS - Bệnh trầm cảm là tình trạng bệnh lý rối loạn cảm xúc, biểu lộ bằng giảm khí sắc, rầu rĩ
, giảm thích thú, thường xuyên mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ...

Bệnh trầm cảm là tình trạng bệnh lý rối loạn cảm xúc, thể hiện bằng giảm khí sắc, rầu rĩ
, giảm thích thú, thường xuyên mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, giảm tập trung lưu ý, cảm nghĩ tự ti, ai oán... Việc phát hiện và điều trị sớm, tư vấn kịp thời rất cần thiết
. Bên cạnh việc dùng thuốc giảm lo lắng và chống trầm cảm, Đông y cũng có một số phương thuốc
hỗ trợ điều trị chứng trầm cảm, xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo.

Vị thuốc toan táo nhân trị suy nhược tâm thần.

Bài 1: Chữa suy nhược tâm thần với các thể hiện trầm cảm và mệt mỏi lo lắng, thuốc: tục tùy tử (thiên kim tử) 50g, đương quy, hoàng kỳ, mỗi vị 25g; toan táo nhân 20g, bạch thược, bạch truật, phục linh, mỗi vị 5g. Sắc chia 2 lần uống trong ngày.

Bài 2: Chữa suy nhược thần kinh với các triệu chứng mất ngủ, chóng mặt, nhức đầu: toan táo nhân 100g, đương quy, mạch môn, câu kỷ tử, thục địa, mỗi vị 50g; phục linh, hạt sen, huyền sâm, ngũ vị tử, mỗi vị 25g; viễn chí, nhân sâm, địa liền, mỗi vị 20g. Tán bột, trộn với mật ong làm thành viên hoàn, mỗi viên 15g. Mỗi lần uống 1 viên, ngày 2 lần, với nước nóng.

Bài 3: Chữa suy nhược tâm thần: câu kỷ tử, bạch chỉ, toan táo nhân, mỗi vị 9g; đương quy, nhân sâm, bạch truật, phục linh, cam thảo, viễn chí, xà sàng, mỗi vị 6g. Sắc, chia 3 lần uống trong ngày.

Bài 4: Chữa suy nhược tâm thần với các triệu chứng chóng mặt, mệt lả, mất trí nhớ, mất ngủ: toan táo nhân 25g, đương quy, phục linh trắng, thục địa, câu kỷ tử, cúc hoa trắng, mỗi vị 20g; viễn chí, tục tùy tử (thiên kim tử), mạch môn, bạch truật, mỗi vị 15g; xuyên khung, nhân sâm, hoàng bá, mỗi vị 10g. Sắc chia 2 lần uống trong ngày.

Bài 5: Chữa suy nhược tâm thần với triệu chứng tim đập nkhô hanh không thở được
: đương quy, thục địa, toan táo nhân, ngũ vị tử, thiên môn đông, mạch môn, mỗi vị 1.560g; hoàng liên, xương bồ, nhân sâm, huyền sâm, phục linh, đan sâm, cát cánh, viễn chí, cam thảo, mỗi vị 780g. Tán bột và làm thành viên nặng 9g. Mỗi lần uống 1 viên, ngày 2 lần với nước nóng.

BS. Đỗ Như

Chữa tiêu chảy bằng vị thuốc từ cây simChữa tiêu chảy bằng vị thuốc từ cây sim Cây dạ cẩm: Thuốc chữa dạ dày &apos;thần kỳ&apos; của người Lạng SơnCây dạ cẩm: Thuốc chữa dạ dày "thần kỳ" của người Lạng Sơn 6 phương thuốc<br /> hay từ cúc hoa vàng6 phương thuốc
hay từ cúc hoa vàng

 

 

Y học cổ truyền - 8 chiêu giúp bạn “khỏe re” ngày Tết

By With Không có nhận xét nào:
Ngốn nhiều thực phẩm, hưởng thụ
vô số thực phẩm trái tuyến có thể khiến bạn phát mệt với bụng và dạ. Những chiêu thức dưới đây có thể sẽ giúp bạn phần nào trong việc “gánh” mà không “nặng” với thực phẩm.

Ngốn nhiều thực phẩm, hưởng thụ
vô số thực phẩm trái tuyến có thể khiến bạn phát mệt với bụng và dạ. Những chiêu thức dưới đây có thể sẽ giúp bạn phần nào trong việc “gánh” mà không “nặng” với thực phẩm.

Uống một ngụm nước táo ngâm

Dùng một ngụm nước táo ngâm sau bữa sáng sẽ rất có lợi cho hệ tiêu hoá. Chỉ cần lấy một thìa nước táo ngâm pha với 200ml nước đun sôi để nguội là chúng ta có ngay một ly nước táo ngâm ấn tượng
. Nước táo ngâm sẽ có nhiều acid acetic do đó làm tăng nồng độ axít trong dạ dày và sẽ rất tốt cho tiêu hoá sau ăn. Điều này càng có lợi hơn với những người viêm dạ dày mạn tính hay là cắt bỏ bán phần dạ dày vì lượng axít tiết ra không đủ cho tiêu hoá.

Uống nước táo ngâm sau ăn giúp dạ dày làm việc tốt hơn.

Không uống nước lạnh trong khi ăn

Chúng ta cần hiểu hoạt động của các men tiêu hoá chỉ đạt được tối ưu khi chúng được hoạt động trong một môi trường tiện lợi hết sức tối đa. Một trong các điều kiện đó là nhiệt độ. Nhiệt độ hoạt động tốt là khoảng 3oC. Nếu chúng ta cố tình uống nước lạnh như nước đá chẳng hạn thì sẽ làm giảm hiệu suất của pepsin trong dạ dày. Pepsin là một men tiêu hoá chủ quản nhất trong dạ dày. Vì thế mà nhớ tránh vừa ăn vừa uống nước lạnh đấy. Cảm giác đã khát tấn công
lừa được cảm giác giận dữ do tiêu hoá gây ra.

Thử một chút trà đắng

Bạn biết gì về trà đắng chưa? Trà đắng nếu được ngâm kỹ 20 phút trước khi uống sẽ giúp chúng ta đạt được nhiều tiện lợi trong tiêu hoá. Người ta kiểm nghiệm và thấy rằng nếu chúng ta uống trà đắng vào thì sẽ kích thích tuyến tiêu hoá ở ruột tiết ra nhiều men tiêu hoá hơn. Do đó mà thử một tách trà đắng sau ăn là một lựa chọn lý nghĩ đó
cho những người tiêu hoá kém

Nhai kỹ

Nếu bạn đang là người ăn vội ăn vàng thì hãy xem xét
nhé. Ăn nhanh nhẹn chỉ giải quyết vấn đề thời gian cho bạn nhưng không giải quyết vấn đề tiêu hoá. Ăn nhanh nhẹn để lại hai hậu quả: thức ăn không được nghiền khô nhỏ và thức ăn không được nhào trộn với nước bọt. Kết quả là thức ăn khó ngấm dịch tiêu hoá nên lâu tiêu. Thức ăn không được nhào trộn với nước bọt nên khổ cực cho dạ dày co bóp. Do đó mà nhai kỹ chính là bạn đã kịp để thời gian cho dịch tiêu hoá tiết ra và có thêm thời gian nghiền khô nát thức ăn để thức ăn được tiêu hoá thuận tiện hơn.

Ăn nhiều chủng loại

Đừng nên nghĩ rằng nếu chúng ta ăn một loại chất thì có thể có hoàn toản các men tiêu hoá. Điều này là không đúng. Nếu chúng ta quá lâu không ăn một loại chất nào đó thì men tiêu hoá lập tức sẽ tự động giảm nồng độ men tiêu hoá chất đó trong ruột. Nếu bỗng nhiên ngột lúc nào đó bạn lại dùng
lại thức ăn này thì cơ thể không thể tiêu thụ được và kết quả là bị tiêu chảy. Do vậy mà trước khi bước vào ngày Tết bạn nên ăn nhiều chủng loại
từ trước đó 1 tháng. Bạn sẽ thấy đến lúc cần, hệ tiêu hoá hoạt động trơn tru như chưa bao giờ bị ốm yếu.

Ðừng tranh thủ… xem tivi Tết

Một cơ chế
tiết dịch tiêu hoá ấn tượng

đó là cơ chế
thần kinh. Trong cơ chế
này, dịch tiêu hoá được tiết ra do các phản xạ thần kinh với mùi, vị và sự đụng chạm của thức ăn vào miệng, dạ dày, ruột. Nếu như chúng ta lại tranh thủ làm việc trong khi ăn hoặc là tranh thủ xem tivi thì hệ thần kinh sẽ không hoạt hóa những phản ứng có lợi. Lúc đó hệ thần kinh đang bận xem tivi hoặc tập trung vào công việc. Số lượng men tiêu hoá tiết ra vì thế là không đủ và chúng ta bị lâu tiêu.

Nên thêm một số gia vị có lợi cho tiêu hóa.

Thêm một chút gia vị

Một số gia vị được cho là có lợi cho hệ tiêu hoá như hồ tiêu, quế, húng, hồi…Những gia vị này có lợi vì chúng có tinh dầu kích thích thần kinh, chúng lại có hoạt chất thúc đẩy vòng chuyển hoá thức ăn thành năng lượng nên rất có lợi cho hệ tiêu hoá. Tóm lại, những gia vị mà có một chút cay, một chút thơm là những gia vị rất tốt. Bạn có thể thêm vào trong thực đơn trong bữa ăn xuân. Điều lôi cuốn
là những gia vị này lại rất sẵn trong những ngày xuân.

Mát-xa bụng

Mát-xa bụng có công dụng kích thích nhu động ruột, tăng lưu chuyển thức ăn. Mát-xa bụng có công dụng kích thích cơ quan tiêu hoá tiết dịch tiêu hoá cho nên rất có lợi cho người hay bị đầy bụng, trướng bụng, chậm tiêu. Có nhiều bài tập tự mát-xa bụng. Một bài tập dễ dàng
là: đặt tay lên vùng sườn phải, vùng này là vùng của gan. Đặt cả bàn tay xuống bụng theo hướng cổ tay ở bên ngoài còn ngón tay hướng vào trong. Xoa nhẹ rảnh rỗig thủng thẳng theo hướng từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ bờ sườn tới rốn. Làm như vậy từ 10-20 lần trong mỗi buổi sáng bạn sẽ thấy dường như gan ruột đang mạnh khỏe
hơn.

BS. Nguyễn Khánh Trang

Y học cổ truyền - Bài thuốc chữa đại tiện khó

By With Không có nhận xét nào:
SKĐS - Táo bón là chứng bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi và ở mọi mùa trong năm nhưng nhiều nhất là mùa thu...

Táo bón là chứng bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi và ở mọi mùa trong năm nhưng nhiều nhất là mùa thu... Nguyên nhân thường do thực chất
âm hư, huyết nhiệt, thiếu máu làm tân dịch khô giảm; hoặc người già yếu, thanh nữ sinh nhiều lần, cơ nhục suy yếu làm bài tiết phân gian truân
; hoặc người vốn dương hư, khí vận hành không thông liền nên tân dịch không lưu thông hoặc do kiết lỵ mạn tính làm tỳ vị kém vận hóa gây đại tiện khó
hoặc lo nghĩ nhiều hại phế khí. Sau đây là một số phương thuốc
trị bệnh.

Bài thuốc của Tuệ Tĩnh

Trị đại tiện khó
do run sợ
rầu rĩ
làm hại phế khí hoặc ăn nhiều thức ăn cay nóng: trần bì (bỏ xơ trắng) 10g, tía tô (lấy cành lá non) 10g, chỉ xác (bỏ ruột sao qua) 10g, mộc thông (bỏ mắt) 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Hoặc dùng hạt tía tô, hạt vừng đen lượng bằng nhau, giã nhỏ cho vào nước, lọc bỏ bã, cho gạo đã đãi tinh khiết
nấu cháo.

Bạch chỉ tán nhỏ uống với nước cơm trị đại tiện khó<br />.

Bạch chỉ tán nhỏ uống với nước cơm trị đại tiện khó
.

Trị đại tiện khó
, bí kết, bụng trướng đầy: nghệ vàng sao khô, tán nhỏ, mủ cây vú bò cùng giã nhỏ làm viên bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 3 viên.

Trị đại tiện khó
, bí đại tiện do trường vị có thấp nhiệt: binh lang (hạt cau) 1 hạt to, tán nhỏ, mỗi lần uống 4g với 3 củ hành thái mỏng, cùng đồng tiện 1 bát sắc uống. Hoặc dùng binh lang 12g cùng với nửa nước, nửa mật ong đem đun một lúc rồi uống nóng.

Trị đại tiện táo kết không thông, uống nhiều thuốc không khỏi: củ rẻ quạt giã sống 12g hòa với 1 chén nước (200ml), lọc bỏ bã cho uống.

Bài thuốc của Hải Thượng Lãn Ông

Trị đại tiện khó
, đại tiện không thông: phèn chua 4g, ba đậu sương 2 hột. Tất cả ngnhân hậu chung, bọc giấy ướt nướng cho ăn.

Hoặc đương quy 10g, bạch chỉ 10g, tán nhỏ uống với nước cơm.

Hoặc vừng đen nấu cháo với gạo trắng, gia vị trọn vẹn
, ăn nóng ngày 2 lần vào sáng, tối.

Hoặc ô mai 10 quả, bỏ hột lấy cơm, quết nhuyễn viên bằng quả táo, nhét vào hậu môn thì thông ngay.

Trị đại tiện khó
ở người già: hoàng kỳ 20g, trần bì (bỏ xơ) 20g. Hai vị tán nhỏ, lấy vừng đen 1 vốc ngnhân hậu nát, đổ nước nấu sôi cho vào 1 thìa mật ong, đun lại cho sôi rồi hòa với nước trên cho uống khi đói.

Trị đại tiện khó
, đại tiện quặn đau, mót rặn: đào nhân 12g, ngô thù du 8g, muối 4g. Cả 3 vị cho vào nồi, đổ nước nấu đến chín thì bỏ hết, chỉ dùng đào nhân. Mỗi lần nhấm 5-7 hột.

Hoặc bồ kết (sao với cám) 100g, chỉ xác (sao) 100g, tán nhỏ, quết với cơm nát làm viên bằng hạt ngô. Mỗi lần uống 30 viên với nước cơm.

Ngoài việc dùng thuốc, hằng ngày nên ăn các món sau để hỗ trợ trị bệnh:

Cháo tía tô, vừng đen: hạt tía tô 10g, vừng đen 15g, gạo lức 100g. Hạt tía tô, vừng đen giã nát, cho nước ngnhân hậu, lọc lấy nước, cho cùng gạo vào nồi, thêm nước đun to lửa cho sôi, sau nhỏ lửa nấu cháo, chia ăn ngày 2 lần.

Sữa bò mật ong: sữa bò 250g, mật ong 60g đun sôi rồi cho vài giọt nước hành. Mỗi ngày uống 1 lần vào sáng sớm lúc bụng đói.

Nộm rau chân vịt: rau chân vịt 30g, rửa tinh khiết
, cắt từng đoạn, nhúng nước sôi, vớt ra trộn với dầu vừng, ăn.

Lương y Nguyễn minh

Vì sao nên uống nước thân phụ<br />nh khô ấm mỗi sáng?Vì sao nên uống nước thân phụ
nh khô ấm mỗi sáng?
Không thể chữa viêm xoang bằng rượu tỏi, mù tạtKhông thể chữa viêm xoang bằng rượu tỏi, mù tạt Bài thuốc cho trẻ suy dinh dưỡngBài thuốc cho trẻ suy dinh dưỡng

 

18/12/16

Y học cổ truyền - Công dụng ấn tượng ít người biết của mía

By With Không có nhận xét nào:
SKĐS - Với người Việt Nam, cây mía rất quen thuộc, nước mía là thức uống rất được ưa chuộng trong mùa hè. Không những thế, mía còn là vị thuốc từ thiên nhiên phòng và chữa nhiều bệnh.

Với người Việt Nam, cây mía rất quen thuộc, nước mía là thức uống rất được ưa chuộng trong mùa hè. Không những thế, mía còn là vị thuốc từ thiên nhiên phòng và chữa nhiều bệnh. Sau đây giới thiệu một số chức năng chữa bệnh của cây mía.

Mùa nóng đi tiểu nhiều, mỗi lần ít một (đái dắt) là có thấp nhiệt, nên uống nước mía để giải nhiệt.

Nước mía gừng tươi chống khát, chống nôn, nhuận phế.

Thanh hao nhiệt, nhuận hầu họng (khô khát): mùa hè uống nước mía tươi (không đá). Mùa đông nấu nước mía uống nóng hoặc cho lát gừng.

Dưỡng âm nhuận táo, sinh tân chỉ khát ho khan ít đờm, người bứt rứt, họng khô, đại tiện khó
: nước mía cho gạo vào nấu thân phụ
́o, ăn nóng.

Dưỡng âm, nhuận phế: dùng cho người hay ho, nóng rát cổ, giọng nói yếu. Bách hợp 50g, ngâm nước nấu nhừ sau cho nước mía 100g và nước củ cải 100g. Uống trước khi đi ngủ 1-2 tiếng.

Ho, hen do nhiệt, sổ mũi, miệng khô: mía ép giã lấy nước nấu cháo ăn.

Chữa ho gà: mía 3 lóng, rau má 1 nắm, gừng 2 lát. Cho vào 2 bát nước, sắc uống ít một.

Chữa chứng phát nóng, miệng khô, cổ ráo, tiểu tiện đỏ sẻn: nhai mía nuốt nước, hoặc nước mía hòa nước cơm mà uống.

Tư âm, dưỡng vị, chống khát, chống nôn mửa: nước mía 150ml, nước gừng 5-10 giọt. Uống từng ngụm một.

Táo bón nhiệt kết đại tràng, thở có mùi hôi, đầy bụng, nước tiểu vàng, nóng, lưỡi vàng mỏng: vỏ cây đại (cạo vỏ ngoài) 40g, phèn chua sống tán mịn 8g, nước mía 300ml cô đặc. Vỏ cây đại sao tán mịn, trộn 3 thứ luyện thành viên 0,5g. Mỗi lần uống 8 viên (4g) sáng sớm và trước khi đi ngủ. Khi thấy đi ngoài được thì thôi.

Chữa bàng quang thấp nhiệt, đái dắt, buốt, đục, viêm đường tiết niệu: mía 1 khúc (300g), mã đề 200g (cả cây), râu ngô 150g. Mía lùi sơ, rửa tinh khiết
, cắt khúc chẻ nhỏ. Cho các thứ vào sắc uống.

Viêm đường tiết niệu, đái dắt, đái ra máu: Chọn mía già bỏ vỏ ép lấy nước. Ngó sen thái nhỏ ngâm nước mía khoảng 5 tiếng. Lấy ngó sen ép lấy nước uống ngày 3 lần. Nước này có tác dụng thanh hao nhiệt lợi thấp.

Bệnh đường tiết niệu, thanh hao nhiệt lợi thấp: nước ép mía 500g, hòa nước ép ngó sen tươi 500g. Chia nhỏ uống trong ngày.

Nứt kẽ môi miệng: lấy nước mía bôi ngoài, uống trong. Hoặc vỏ mía đốt tồn tính trộn ít mật ong bôi vào.

Chữa suy nhược cơ thể, ăn ngủ kém, hay mệt: nước mía ép 1/2 lít, trứng gà tươi 2 quả. Nước mía nấu sôi, đập trứng vào, nhắc xuống đậy kín nắp. Ăn nóng. Nếu tay chân lạnh thêm lát gừng sống giã nát cho vào nước mía khi sôi.

Người gầy (hốc hác) da khô, tóc cháy: rau má xay 200g, nước dừa xiêm 1 quả, nước mía 1 chén. Có thể thêm mật ong, sữa ong chúa để uống mỗi lần (không pha sẵn). Uống trước khi ngủ.

Chữa người gầy: lấy 1 lít nước mía nấu kỹ với chuối khô (mứt chuối) 200g. Hai thứ nấu sôi, để lửa nhỏ, đập vào 2 quả trứng gà tươi (mới đẻ), ăn nóng. Tuần dùng 3 lần sẽ thấy hiệu quả.

Mí mắt sưng đỏ, viêm màng liên minh
, nhiều dử: nước mía tinh khiết
bôi lên mí mắt trên dưới, hoặc tẩm gạc đắp lên mắt để tiêu viêm thanh hao hỏa. Trước uống nước mía pha 4g xuyên hoàng liên.

Trẻ em mồ hôi trộm: ăn mía, uống nước mía.

Chữa phiền đức vị, ăn vào nôn ra: nước mía 200g, nước cốt gừng 15ml. Trộn đều uống từng thìa nhỏ trong vài ngày. Bài này còn dùng chữa đau dạ dày mạn tính và giải độc cá nóc.

Chữa bệnh bụi phổi: nước mía 50ml, nước củ cải 50ml, cho mật ong, đường phèn, dầu vừng 1 ít chưng thành cao. Hằng ngày cho 2 lòng đỏ trứng gà tấn công
đều với cao tùy ý rồi hấp cơm.

Phòng hậu sởi: sắn dây 40g, rau mùi 20g, mía 2 đốt. Dùng 2 bát nước sắc còn 1 bát uống dài ngày trong dịch sởi. Sau sởi ép lấy nước mía vỏ đỏ uống.

Sốt rét có báng: ăn mía hàng tuần, tháng. Kết hợp các phương khác của Đông y, Tây y.

Giải say rượu: uống nước mía hoặc nhai mía nuốt nước.

Ngộ độc cá nóc: nước mía với gừng tươi mỗi thứ một ít, nước mía là chính, uống để sơ cứu rồi đưa đi bệnh viện ngay.

Lưu ý: Tránh trộn nước mía với bia hoặc cho đá gây thấp nhiệt.

BS. Phó Thuần Hương

Ba kích trị &quot;trên bảo dưới không nghe&quot;Ba kích trị 'trên bảo dưới không nghe' Củ mài chữa suy nhược cơ thểCủ mài chữa suy nhược cơ thể PGS.TS. Nguyễn Duy Thuần nói về tác dụng lợi sữa, chữa mất sữa, ít sữa của cây Shatavari – Thiên Môn ChùmPGS.TS. Nguyễn Duy Thuần nói về tác dụng lợi sữa, chữa mất sữa, ít sữa của cây Shatavari – Thiên Môn Chùm

 

 

Y học cổ truyền - Hạt mè: thức ăn bổ thận, hữu dụng cho thanh nữ

By With Không có nhận xét nào:
SKĐS - Hạt mè thường dùng chữa các chứng: tóc bạc sớm, suy nhược sau cơn bệnh, ho khan, thiếu sữa sau ktừ trần, ung nhọt, suy nhược cơ thể

Hạt mè thường dùng chữa các chứng: tóc bạc sớm, suy nhược sau cơn bệnh, đại tiện khó
, ho khan, thiếu sữa sau ktừ trần, ung nhọt, suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh.

Mè có tên khoa học: Sesamum indicum L., thuộc họ Vừng (Pelaliaceae). Hạt mè (mè đen, mè trắng) có vị ngọt, tính bình, không độc, có tác dụng kiện tỳ ích vị (bổ dưỡng và hoàn chỉnh tính năng
tiêu hóa), tư âm nhuận phổi (bổ máu dưỡng phổi), bổ can thận. Hạt mè chứa các thành phần dinh dưỡng gồm protid, lipid, glucid, xơ, vitamin B1, B2, PP, E, , các chất khoán thùg như: Ca, P, K, Na, Mg, Fe, Zn, Se, Cu, Mn…

Sau đây là những phương thuốc
từ hạt mè:

Chữa viêm thận mạn tính, tiểu ra đạm: mè đen 0,5kg, quả óc chó 0,5kg, táo đỏ đầy đủ. Mè đen và quả óc chó tán nhuyễn, ngày 3 lần, mỗi lần 20g, sau khi uống nhai thêm 7 quả táo (đây là 1 liệu trình, uống hết chế biến tiếp).

Chè mè đen: món ăn bổ thận, đen tóc, dưỡng da

Dự phòng cận thị: mè đen 50g, câu kỷ tử 30g, gạo tẻ 60g. Thêm nước đầy đủ nấu cháo, ngày 1 lần, ăn lúc ấm.

Chữa nội tạng bị suy: mè đen đầy đủ, sau khi hấp chín đem đi phơi, gạo tẻ đầy đủ, cùng nấu cháo ăn.

Chữa người tay chân sức yếu, lưng gối mỏi đau: mè đen, thục địa, bo bo, rượu với mỗi thứ đầy đủ. Bọc trong túi vải, ngâm trong rượu 1 tuần, dùng uống lúc bụng đói.

Chữa tính năng
can và thận bị suy, đại tiện khó
, dưỡng da: mè đen, lá dâu, với mỗi thứ có lượng bằng nhau, nếp đầy đủ, nấu cháo ăn.

Chữa mề đay: mè đen 10g, táo đen 10g, đậu đen 10g. Sắc uống, ngày 1 thang, uống thường xuyên.

Chữa khí huyết cùng suy: lá mè đen tươi 1 bó, dùng nước sôi để hãm, uống thay trà, uống tùy thích.

Chữa sản phụ thiếu sữa:

- Mè đen 250g, giò heo 2 - 3 cái, gia vị đầy đủ. Giò heo hầm canh, mè đen sau khi rang tán nhuyễn, uống với canh giò heo, mỗi lần 15g, ngày 3 lần.

- Mè đen đầy đủ, trứng gà 1 quả, muối ăn một ít. Mè đen rang thơm, tán nhuyễn, nêm vào ít muối, trứng gà luộc chín, bỏ vỏ, rồi chấm ăn với muối mè, ngày 1 lần, ăn thường xuyên.

Chữa người cao tuổi hen suyễn: mè đen 250g (sao), gừng tươi 120g, đường phèn 100g, mật ong 100g. Gừng vắt lấy nước, nước gừng trộn với hạt mè, rồi cho vào chảo rang thơm, để nguội. Đường phèn và mật ong nấu chảy trộn đều, trộn đều với mè, sau cùng chứa trong một hũ to, mỗi sáng và chiều múc ăn 1 muỗng canh.

Chữa tăng huyết áp: mè đen 30g, dấm 30ml, mật ong 30g, trộn đều để uống, ngày 3 lần, uống 3 ngày.

Chữa mất ngủ do thận suy, đại tiện táo kết: mè đen 20g, quả óc chó (hạch đào nhân) 60g, lá dâu 60g, đường trắng một ít. Tất cả cùng tán nhuyễn, thêm đường trắng, uống trước khi ngủ, chia uống 2 - 3 lần, uống thường xuyên.

Chữa đại tiện khó
:
mè đen 100g, nhân hạt mơ 60g, gạo 100g, nấu cháo, ngày 1 lần, ăn liền vài ngày.

Chữa thiếu máu: mè đen 15g, câu kỷ tử 15g, thục địa 20g, đảng sâm 30g, đương quy 10g, bạch thược 10g, sắc uống, ngày 1 - 2 lần.

Chữa chứng tăng mỡ máu: mè đen 60g, quả dâu 60g, gạo tẻ 30g, đường trắng đầy đủ. Mè đen, quả dâu, gạo tẻ cá biệt rửa sạch sẽ, cho vào cối giã nát. Đổ 3 chén nước vào nồi nấu sôi, thêm đường trắng, sau khi đường tan, dần dần cho vào các vật liệu trên, nấu ra dạng hồ để ăn.

Chữa trí nhớ suy giảm, hay quên, mất ngủ: mè đen 250g, quả óc chó (nhân hạch đào) 250g, đường đen 0,5 kg. Mè đen và quả óc chó cùng rang chín. Đường đen cho vào nồi, thêm nước đầy đủ, nấu với lửa nhỏ, khi đường chảy dính, kéo lên thấy sợi, tắt bếp, đổ vào mè đen, quả óc chó, trộn đều, sau khi đổ vào những khuôn có lót dầu ăn, chờ nguội, cắt miếng, mỗi lần dùng 15g, ngày 3 lần, ăn thường xuyên.

Chữa mề đay: mè đen, rượu đế, đường trắng với mỗi thứ đầy đủ. Mè đen rang sơ tán nhuyễn thêm đường trắng. Mỗi lần dùng mè đen và 2 muỗng canh rượu trộn đều, cho vào chén, chưng cách thủy, khi thấy sôi, chưng thêm 15 phút, dùng lúc sáng bụng đói hay dùng sau bữa ăn 2 tiếng, ngày 2 lần.

Chữa viêm thận mạn tính: mè đen và đường trắng với mỗi thứ đầy đủ. Mè đen rang chín tán nhuyễn, trộn với đường trắng dùng
dần. Ngày 2 lần, mỗi lần 1 muỗng, uống với nước đun sôi, trời lạnh dùng thường xuyên.

Chữa thận suy già sớm: mè đen, quả óc chó, mật ong với mỗi thứ đầy đủ. Mè đen rang thơm thêm quả óc chó, cùng tán nhuyễn, mỗi lần 2 muỗng, mỗi sáng và chiều 1 lần, uống với nước pha mật ong.

Chữa trĩ ra máu: mè đen 600g, đường đen 0,5kg. Mè đen rang cháy, cho vào đường đen trộn lẫn, ăn tùy ý, mỗi ngày vài lần.

Chữa trẻ em ho gà: mè đen 50g, đậu phộng 30g, mật ong 50ml. Tất cả cho vào nồi thêm nước nấu canh, ăn sau khi nấu chín, ngày 1 lần, dùng liền 3 - 5 ngày.

Hỗ trợ điều trị sa tử cung: mè đen 150g, ruột heo 300g, thăng ma 10g, gia vị đầy đủ. Ruột heo rửa sạch sẽ, thăng ma bọc trong túi vải, cùng mè đen nhét vào ruột heo, cho vào trong nồi đất thêm nước đầy đủ hầm cho đến nhừ, thải trừ thăng ma, nêm gia vị, chia vài lần ăn ruột dùng canh, ngày 2 - 3 lần, dùng liền 3 tuần.

Chè mè đen: món ăn bổ thận, đen tóc dưỡng da

Thành phần chính của món chè mè đen là mè đen đã rang thơm, gạo xay, đường trắng. Các chuyên gia dinh dưỡng phân tích: trong mè đen chứa 60% dầu, các acid béo trong dầu phần nhiều
là những acid béo không bão hòa như acid linoleic, acid palmitic… Hàm lượng protid trong mè cũng hơi cao, gần bằng với đậu đỏ, kịp thời bổ sung chất protid cần thiết cho đại não và hệ thống thần kinh. Bởi lẽ, chất protid có tác dụng cần thiết
đối với não, chất protid hầu như chiếm phân nửa cân nặng của não, cho nên cần bổ sung protid kịp thời, nếu không tính năng
hoạt động của đại não sẽ bị ảnh hưởng. Mè còn chứa các chất như sesamin, sesamolin, lipophosphor, vitamin B1, E, sắt, phosphor, canxi… Nghiên cứu khoa học tìm hiểu rằng acid linoleic là chất cần thiết
của tổ chức các tế bào đại não, nó nuôi dưỡng tế bào não, xúc tiến các chuyển hóa của tế bào não, từ đó nâng cao tính năng
của não.

Bên cạnh đó, chè mè đen còn có công hiệu cường tráng thân thể, bổ thận dưỡng phổi, làm tóc đen mượt, óng ả, nhuận trường, chống đại tiện khó
, từ đó góp phần bảo vệ
nhan sắc… Cho nên, có thể nói chè mè đen không chỉ bổ não, mà còn là món ăn dinh dưỡng nhiều tính năng
.

Cách dùng: mỗi ngày ăn 1 chén, có thể dùng làm món tráng miệng buổi sáng, cũng có thể dùng vào bất cứ lúc nào.

LY.DS. BÀNG CẨM

Vòng 3 bớt thâm, sần sùi nhờ 6 cách dễ dàng<br />Vòng 3 bớt thâm, sần sùi nhờ 6 cách dễ dàng
Mẹo làm mi cong tự nhiên với dầu dừaMẹo làm mi cong tự nhiên với dầu dừa Luộc rau ngon cũng cần &apos;bí kípLuộc rau ngon cũng cần "bí kíp"

Y học cổ truyền - Hiểu đúng về việc dùng hạt sen chữa mất ngủ

By With Không có nhận xét nào:
Nhiều người cho rằng ăn hạt sen chữa mất ngủ nhưng thực tế nếu dùng không đúng cách sẽ không có hiệu quả.

Hạt sen từ lâu là thức ăn và cũng là những vị thuốc quý được nhân dân ta dùng
từ lâu đời. Nhiều người cho rằng ăn hạt sen chữa mất ngủ nhưng thực tế nếu dùng không đúng cách sẽ không có hiệu quả.

Sen là cây thuốc quý đã được biết đến từ lâu, tất cả các bộ phận của cây đều được dùng làm thuốc. Trong đó, hạt sen cũng được nghiên cứu và có nhiều công dụng không giống nhau. Những năm gần đây, các nhà thực vật học đã chứng minh bằng thực nghiệm rằng trong hạt sen có chất kiềm, glucôxit thơm có công dụng an thần. Sau khi ăn hạt sen, tuyến tụy tiết ra chất insulin làm người ta dễ ngủ hơn.

hat-sen

 

BS Trịnh Xuân Trường – Bệnh viện Y học cổ truyền Nam Á, cho biết, hạt sen (còn gọi là Liên nhục, Liên tử) có vị ngọt tính bình, có công dụng bổ tỳ kiện tỳ, kích thích tiêu hóa, chữa đầy hơi, kém ăn. Hạt sen không có nhiều công dụng chữa mất ngủ. Thậm chí nếu dùng không đúng cách thì còn không mang lại hiệu quả.

Trong hạt sen gồm hai thành phần là hạt và tâm sen. Búp trong hạt sen được gọi là tâm sen mới là thành phần có công dụng chữa mất ngủ. Đông y thường hay dùng cấu kết tâm sen và hạt sen có công dụng kích thích tiêu hóa, kiện tỳ và chữa chứng suy nhược thần kinh, mất ngủ, an thần. Nếu trong trường hợp hạt sen đã bỏ đi tâm sen thì sẽ không có công dụng chữa mất ngủ. Khi đó, hạt sen chỉ có công dụng kiện tỳ - kích thích tiêu hóa hay chữa các bệnh đường tiêu hóa. Trong chữa mất ngủ, dùng không tâm sen cũng có công dụng rất tốt.

BS Trường cho biết thêm, nhiều người lo lắng việc ăn hạt sen liên tiếp
trong thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Tuy nhiên, hạt sen là một vị thuốc nên sẽ không ảnh hưởng đôi khi chúng ta ăn liên tiếp
. Chỉ để ý khi dùng hạt sen để có công dụng chữa mất ngủ, suy nhược cơ thể và thần kinh thì ta nên cấu kết cả hạt sen và tâm sen. Nên dùng loại hạt sen được sấy khô có giữ nguyên tâm sen. Còn chỉ bị đau đầu, mất ngủ không thì khuyến cáo dùng riêng tâm sen tốt hơn dùng chung. Hạt sen có tính bình không độc, không có cấm kỵdị kì
nhưng trong các trường hợp đầy bụng, khó tiêu, đại tiện khó
nên hạn chế dùng.

Hạt sen ngoài việc dùng riêng lẻ để đun nước uống hàng ngày cũng có thể dùng phối hợp với các vị thuốc như cam thảo, hoàng tùy… nhằm bồi dưỡng cơ thể. Hạt sen có giá trị dinh dưỡng cao. Trong 100g hạt sen tươi có 9,5g protid, 30g glucid, 0,8g xenluloza, cung ứng
cho cơ thể được 162 calo. Dường như còn có nhiều loại vitamin cần thiết cho cơ thể: caroten, vitamin B1 (0,17mg%), vitamin B2 (0,09mg%), vitamin PP (1,7mg%), vitamin C (17mg%)... Trong 100g hạt sen khô có 20g protid, 2,4g lipid, 58g glucid, 17,5g xenluloza, cung ứng
cho cơ thể 342 calo, và một số muối khân oán
g cần thiết
(canxi 89mg%, photpho 285mg%, sắt 6,4mg%,v.v...). Từ hạt sen, nhân dân ta đã chế biến nhiều món ăn ngon có giá trị bồi dưỡng cao như chè sen, mứt sen, chè hạt sen long nhãn, móng giò hầm hạt sen...

Y học cổ truyền cũng như dân gian có những món ăn phương thuốc
chữa mất ngủ rất dễ dàng
, không độc và dễ làm như ăn canh bí đỏ khoai lang, chè hạt sen long nhãn, lá vông nem, nước sắn dây nhãn lồng cũng giúp giảm các chứng mất ngủ, suy nhược thần kinh, lo âu, căng thẳng do làm việc quá sức, suy nhược cơ thể.

Theo các chuyên gia Đông y, công dụng của hạt sen là có thực hoàn thành muốn dùng
có hiệu quả và đúng bệnh cần có chỉ định của các nhà chuyên môn. Để có hiệu quả trong việc chữa bệnh mất ngủ, ngoài dùng các vị thuốc thì người mất ngủ cũng cần áp dụng các liệu pháp hỗ trợ phòng chứng khó ngủ như không ăn quá no, không dùng
các đồ uống có chất kích thích như trà, cà phê… và tập các động tác nhẹ thanh nhàng thư giãn trước khi đi ngủ nhằm tạo tinh thần dễ chịu
, tránh stress. Trường hợp bị mất ngủ nhiều cần đi khám và bốc thuốc theo đơn

(Theo MASK trực tuyến
)

Y học cổ truyền - Món ăn - phương thuốc cho người đau thắt ngực

By With Không có nhận xét nào:
Đau thắt ngực là một bệnh tim mạch thường chạm chán ở người cao tuổi, người bị tăng huyết áp, tiền sử có bệnh tim mạch, đái tháo đường hoặc do căng thẳng thần kinh.

Nguyên nhân trực tiếp dẫn tới đau thắt ngực là do nhu cầu về máu của cơ tim vượt quá lượng máu được cung ứng
từ động mạch vành và thường do động mạch vành bị xơ vữa.

Đông y xếp chứng bệnh này vào phạm vi chứng tâm thống. Nguyên nhân do nội nhân và ngoại nhân. Nội nhân chính yếu do tuổi cao, tính năng
của 3 tạng tâm, tỳ và thận bị suy yếu, âm dương khí huyết không trọn vẹn
, khiến cho tâm mạch bị nghẽn tắc mà gây nên bệnh. Ngoại nhân chính yếu do nhiễm lạnh đột ngột, ăn quá no, tình chí kích thích quá mạnh hoặc làm việc quá mệt nhọc, khiến cho tâm mạch bị nghẽn tắc mà gây nên bệnh.

Người bệnh có những triệu chứng điển hình là đột nhiên
nhiên đau thắt ở ngực trái – vùng trước tim và sau xương ức; đau thường lan lên cổ, hàm, vai, cánh tay trái hoặc ra sau lưng. Cơn đau thường sinh ra đột ngột, khi phải gắng sức, bị nhiễm lạnh, ăn uống quá no say, tình cảm kích động mạnh. Ngoài việc dùng thuốc theo y học tiến bộ, người bệnh nên ăn uống các món sau để hỗ trợ điều trị.

chè đậu xanh cát căn tốt cho người đau thắt ngực.

Chè đậu xanh cát căn tốt cho người đau thắt ngực.

1. Chè đậu xanh cát căn: đậu xanh 50g, gạo nếp ngon 40g, bột sắn dây 12g, đường trắng vừa đủ, gừng tươi 2 lát. Đậu xanh và gạo nếp nấu thành cháo cho chín kỹ. Bột sắn dây hòa nước lạnh cho tan hết, rồi đổ vào nồi cháo, quấy cho chín đều, cho đường và gừng vào là được. Múc ra bát, ăn nguội. Công dụng: thanh hao tâm dưỡng tâm, bổ trung ích khí. Phù hợp cho những người đau thắt ngực kèm theo khó thở
, sốt ruột, trằn trọc ít ngủ.

2. Cháo bồ câu, đan sâm, lạc tiên: chim bồ câu 1 con, gạo tẻ 60g, đan sâm 20g, lạc tiên 20g, gia vị vừa đủ. Chim bồ câu làm sạch sẽ lông bỏ nội tạng. Đan sâm và lạc tiên sắc lấy nước bỏ bã, cho nước thuốc cùng gạo và thịt chim hầm thành cháo, nêm gia vị, rau thơm ăn nóng. Công dụng: chim bồ câu bổ tinh huyết, tăng nhanh
sinh lực, đan sâm bổ khí hoạt huyết, làm lưu thông huyết mạch, chống huyết khối. Lạc tiên dưỡng tâm an thần. Các vị hợp lại tác dụng hoạt huyết thông mạch, bổ khí giảm đau, chống co thắt, dưỡng tâm an thần dịu đau, hết sốt ruột, hoảng hốt.

 

Cháo bồ câu đan sâm.

3. Canh thịt nạc, lá dâu: thịt lợn nạc 100g, lá dâu non 60 - 70g, gia vị vừa đủ. Thịt nạc rửa sạch sẽ băm nhỏ, lá dâu non rửa sạch sẽ thái ngắn. Hai thứ nấu thành canh, nêm gia vị ăn cùng với cơm. Công dụng: thịt nạc giàu dinh dưỡng. Lá dâu tính mát bổ âm, bổ tâm, nhuận phế. Dùng món này người bệnh bớt căng thẳng, giảm đau, êm dịu thần kinh, ngủ ngon.

Trứng vịt lộn ngải cứu tốt cho người đau thắt ngực có thiểu năng vành.

Trứng vịt lộn ngải cứu tốt cho người đau thắt ngực có thiểu năng vành.

4. Trứng vịt lộn hầm ngải cứu: trứng vịt lộn 5 quả, lá ngải cứu non 60g. Trứng vịt lộn luộc cho chín. Lá ngải cứu rửa sạch sẽ. Trứng bỏ vỏ cùng ngải cứu thêm một chút rượu trắng và mắm muối, cho vào nồi hầm cho chín kỹ là được. Ăn lúc còn nóng. Công dụng: trứng vịt lộn bổ dưỡng cho cơ thể và tim mạch. Lá ngải cứu tính hơi ôn, tác dụng hoạt huyết bổ huyết, chống kết tập tiểu cầu, thông huyết mạch. Món này thích hợp
với những người bị đau thắt ngực, thiểu năng vành, có triệu chứng khó thở
, sốt ruột sợ hãi, rạo rực khó ngủ.

Lương y Trịnh Văn Sỹ

 

Thực đơn cho người đái tháo đườngThực đơn cho người đái tháo đường Thực phẩm vàng cho giấc ngủ ngonThực phẩm "vàng" cho giấc ngủ ngon Rối loạn tiền đìnhRối loạn tiền đình

 

Y học cổ truyền - Bài thuốc trị viêm xoang dị ứng

By With Không có nhận xét nào:
SKĐS - Viêm xoang dị ứng hay chạm chán quanh năm, nhất là khi giao mùa, thường hiện ra
sau khi có nhiễm virut (cảm cúm), do dị ứng hoặc nhiễm nấm đường hô hấp, làm màng nhày viêm và sưng lên, vì thế dịch từ các xoang không thoát ra được.

Viêm xoang dị ứng hay chạm mặt
quanh năm, nhất là khi giao mùa, thường sinh ra sau khi có nhiễm virut (cảm cúm), do dị ứng hoặc nhiễm nấm đường hô hấp, làm màng nhày viêm và sưng lên, vì thế dịch từ các xoang không thoát ra được. Bệnh hay tái phát, người bệnh thường xuyên ngạt mũi chảy nước mũi... Nếu không điều trị tốt có thể gây viêm tai giữa, viêm phế quản, phổi hoặc trở thành
viêm xoang mạn tính.

Bạc hà là vị trong món canh trứng, tân di, bạc hà, ty qua đằng rất tốt cho người viêm xoang dị ứng.

Nguyên nhân theo Đông y là do phế khí và vệ khí không khống chế được phong hàn xâm nhập gây ra bệnh. Chảy nước mũi là dấu hiệu đặc trưng, có nhày hoặc có mủ, ngạt mũi thường xuyên; giảm hoặc mất khứu giác. Niêm mạc mũi phù nề, nhợt nhạt, cuốn mũi nề mọng; sàn mũi và các khe có chất xuất tiết ứ đọng. Phương pháp chữa là bổ khí cố biểu, khu phong tán hàn. Dùng một trong các bài:

Bài 1: Ngọc bình phong tán hợp quế chi gia giảm: hoàng kỳ 16g, phòng phong 6g, bạch truật 8g, quế chi 8g, bạch thược 12g, đại táo 3 quả, gừng tươi 3 lát. Sắc uống.

Bài 2: Tiểu tkhô giòn long thang gia giảm: ma hoàng 6g, quế chi 6g, bạch thược 12g, can khương 4g, cam thảo 4g, tế tân 4g, bán hạ chế 8g, ngũ vị tử 5g, đảng sâm 15g, hoàng kỳ 12g, khương hoạt 8g, ké đầu ngựa 12g. Sắc uống.

Bài 3: bạch truật 12g, quế chi 8g, cam thảo 4g, hoài sơn 16g, tang bạch bì 10g, bạch chỉ 12g, ké đầu ngựa 16g, xuyên khung 16g, tế tân 3g. Sắc uống.

Người bệnh nên hòa hợp ăn uống các món sau để tăng hiệu quả điều trị:

Lợi đàm trà: chi tử 20g, bạc hà 6g, thương nhĩ tử 12g, tân di 12g. Dược liệu cùng tán vụn, đem pha hãm cùng với chè uống ngày 1 ấm. Đợt dùng 7 - 20 ngày. Dùng cho các trường hợp viêm mũi xuất tiết, đờm đặc vàng, niêm mạc mũi sung huyết sưng nề, đau đầu, đau vùng cánh mũi chân má.

Canh trứng, tân di, bạc hà, ty qua đằng: ty qua đằng (dây mướp) 60g, tân di 10g, trứng gà 2 quả, bạc hà tươi 10g. Ty qua đằng cắt đoạn rửa tinh khiết
, cùng tân di và trứng cho vào xoong nấu. Khi trứng gần chín, lấy ra bóc bỏ vỏ, nấu tiếp, cho bạc hà vào, nấu canh. Ăn trứng và uống nước. Ngày 1 lần, đợt dùng 5 - 10 ngày. Dùng cho các trường hợp viêm mũi xuất tiết, đờm đặc vàng, niêm mạc mũi sung huyết sưng nề, đau đầu, đau vùng cánh mũi chân má.

Cháo thương nhĩ bạch chỉ: thương nhĩ tử 20g, bạch chỉ 6g, hoàng kỳ 30g, kinh giới 10g, tế tân 4g, gạo tẻ 60g, đường trắng lượng thích hợp. Đem các dược liệu sắc lấy nước bỏ bã, cho vào nấu cháo với gạo tẻ, cháo được cho thêm đường, ngày ăn 1 lần, đợt 7 - 10 ngày. Dùng cho các người bệnh
viêm xoang mũi họng, đau nhức đầu tắc mũi, ngạt mũi.

Lương y Thảo Nguyên