PGS.TS.BS. Bùi Khắc Hậu (Đại học Y Hà Nội)
Hiện nay việc dùng kháng sinh ở nước ta chưa đi vào nề nếp, dùng chưa đúng và chưa có lí, khác biệt là đối với trẻ em. Khi nào phải dùng kháng sinh luôn là một bài toán ngay đối với chính các thầy thuốc, nhất là khi quyết định ấy dành cho trẻ em bởi nếu sự lựa chọn không đúng mực sẽ gây hại cho trẻ không chỉ hiện tại mà cả tương lai sau này.
Bên cạnh việc dùng thuốc, cần chú tâm trẻ chu đáo. |
Kháng sinh là gì?
Kháng sinh là một chất mà ngay ở nồng độ thấp nhất cũng có kĩ năng hủy hoại hoặc ức chế sự sản xuất của vi khuẩn (vi nấm). Kháng sinh có nhiều nhóm không giống nhau, trong mỗi nhóm có nhiều loại biệt dược, vì vậy khi muốn dùng một loại kháng sinh nào đó người thầy thuốc phải biết được kháng sinh đó thuộc nhóm nào, nhất là khi muốn câu kết kháng sinh (nên chu đáo là không câu kết kháng sinh trong cùng một nhóm). Người ta tạm phân phân thành 7 nhóm kháng sinh chính và một số nhóm phụ khác trên cơ sở dựa dẫm cơ chế công dụng của chúng lên vi khuẩn hoặc vi nấm. Các nhóm kháng sinh đó là: nhóm beta - lactam (bao gồm phân nhóm penicillin và cephalosporin), nhóm aminoside, nhóm phenicol, nhóm lincosamie, nhóm macrolide, nhóm tetracyclin, nhóm kháng sinh chống nấm và một số nhóm phụ khác như nhóm quinolone, nhóm nitroimidazole, các dẫn xuất của sulfanilamide và các glycopeptide.
Khi nào thì dùng kháng sinh cho trẻ?
Hiện nay vẫn còn có hiện tượng tự mua thuốc để điều trị cho trẻ cho dù không biết trẻ bị bệnh gì, nghĩa là người mẹ cứ thấy con mình ho, hắt hơi, sổ mũi hoặc hơi sốt (thậm chí người mẹ cũng không cặp nhiệt độ để đo nhiệt độ cho trẻ mà chỉ phỏng đoán hoặc sờ vào trán con rồi nghĩ là cháu có sốt mà thôi). Vì vậy muốn biết trẻ có nên dùng thuốc kháng sinh hay không nhất thiết phải có ý kiến của bác sĩ, nếu có điều kiện đi khám bác sĩ chuyên khoa nhi thì càng tốt. Chỉ dùng kháng sinh cho trẻ khi bác sĩ thấy cháu có các triệu chứng lâm sàng về nhiễm trùng nghi do vi khuẩn (hoặc vi nấm), ví dụ có dấu hiệu viêm nhiễm như sưng, nóng, đỏ, đau trong một số bệnh viêm cơ, áp-xe cơ hoặc trong các bệnh về đường hô hấp (viêm phế quản - phổi...), trong các bệnh về tai, mũi, họng như VA, amidan, viêm tai... hoặc bận rộn bệnh do virut nhưng có bội nhiễm thêm vi khuẩn như viêm phế quản sau sởi, nhiễm trùng da do thủy đậu. Ngoài các triệu chứng lâm sàng thì một số chỉ số về cận lâm sàng cũng đóng góp một cách đáng kể giúp thầy thuốc lâm sàng chẩn đoán bệnh nhiễm khuẩn một cách đúng mực hơn để có hướng dùng kháng sinh hay khôngví dụ như vận tốc lắng máu, chỉ số bạch cầu trung tính, tiểu cầu hoặc cấy máu tìm vi khuẩn trong các trường hợp nghi nhiễm trùng huyết do vi khuẩn (vi nấm). Khi bác sĩ đã tìm ra nguyên nhân và chẩn đoán chắc chắn trẻ có bận rộn bệnh nhiễm khuẩn thì lúc đó bác sĩ sẽ chỉ định chi tiết dùng thuốc kháng sinh gì, mỗi ngày dùng bao nhiêu là đủ, thuốc đó dùng bằng cách nào (uống, tiêm hay đặt hậu môn...). Khi đã có đơn của bác sĩ người mẹ cần vâng lệnh dùng đúng chỉ định, tuyệt đối không tự ý đổi tên thuốc (việc này có thể gặp ở một số quầy thuốc tư nhân, dược tá muốn bán được loại thuốc mình có cho nên cứ tư vấn theo hướng đó để người bệnh hay người nhà người bệnh mua thuốc của mình bất chấp người bệnh đã có đơn của bác sĩ). Để đề phòng trường hợp dùng thuốc kháng sinh không hiệu quả hoặc hiệu quả kém bởi một lý do nào đó, ví dụ vi khuẩn đã kháng lại thuốc kháng sinh đó chẳng hạn hoặc loại thuốc đó không thích hợp như uống vào buồn nôn, thậm chí bị dị ứng... thì cần đến gặp lại bác sĩ đã khám và kê đơn để được tư vấn thêm và có hướng xử lý thích hợp. Tuyệt đối không tự tiện đổi thuốc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét